Nhân Vật Phản Diện Quá Xinh Đẹp - Chương 140
Chương 140: Ngày tháng còn dài (Hoàn chính văn)
Cây hoa trên núi bị Từ Bình Sinh nhổ cả rễ lên được Từ Hành Chi trồng trong sân, cây hoa đó được nuôi dưỡng trong gió, tới đầu tháng ba năm Thiên Định thứ mười bảy nở rộ những đóa hoa mùa xuân tươi đẹp.
Nhiều năm trước, Minh Nha Quốc thuộc quỷ đạo vì tùy tiện tàn sát người dân mà tạo ra ngàn vạn cô hồn ác quỷ, bị thế gian phỉ nhổ, bốn môn phái xử tội, cuối cùng rơi vào kết cục bị tiêu diệt gần như chẳng còn ai.
Bây giờ, Thi Tông và Huyết Tông của ma đạo cũng giẫm vào vết xe đổ của người đi trước.
Đầu tháng hai, Tôn Nguyên Châu dẫn toàn bộ Xích Luyện Tông lần lượt gửi thư cho bốn môn phái, trong thư nói muốn hòa giải, thật ra ẩn ý là đầu hàng.
Sau khi nhận được thư, mấy người Từ Hành Chi và Khúc Trì đi gặp riêng Tôn Nguyên Châu một lần. Gã mặc áo bào xám tro, đôi mắt màu xám trông cực kỳ trầm lặng, không hèn mọn không kiêu căng, biết tiến biết lùi, quả là một nhân vật đáng tin cậy.
Sau khi thỏa thuận, trong vòng ba trăm dặm tổng đàn cũ của ma đạo được tạm thời đánh dấu là khu vực an toàn. Đệ tử ma đạo hoạt động ở đó, bốn môn phái sẽ không vào quấy nhiễu.
Nếu vẫn còn đệ tử ma đạo muốn đầu hàng thì họ đều có thể tự đến tổng đàn ma đạo, một khi bước chân vào tổng đàn sẽ không được luyện thi thể thành người, ngâm độc nuôi cổ nữa. Tôn Nguyên Châu là chủ mới của ma đạo, phải chịu trách nhiệm về những việc xảy ra trong tổng đàn, nếu xuất hiện gây loạn nữa, bốn môn phái có thể hủy bỏ hiệp ước bất cứ lúc nào.
Tôn Nguyên Châu đồng ý từng điều một nhưng không nghe theo hết. Gã tỏ ý gã sẽ không gửi con tin như tông chủ tiền nhiệm mà sẽ đích thân lên núi thăm hỏi định kỳ, để bốn môn phái yên tâm.
Dù sao đám Từ Hành Chi cũng kiêng kỵ với con tin nên đồng ý đề nghị của Tôn Nguyên Châu.
Sau khi mọi việc được quyết định xong xuôi, Từ Hành Chi thuận miệng hỏi một câu: “Vì sao vẫn chọn chốn cũ để đặt chân?”
Tôn Nguyên Châu nghe vậy thì mi mắt hơi cụp xuống.
Rõ ràng gã chẳng nhiều tuổi gì cho cam mà lời nói cử chỉ lại mang cảm giác thương xót như người cao tuổi.
Tôn Nguyên Châu nhỏ nhẹ nói: “Sơn chủ đã không còn người thân nào trên đời, dẫu sao cũng phải có người xây nhà thờ cúng cho ngài ấy.”
Biết trong lòng người này có tín ngưỡng riêng, Từ Hành Chi không hỏi thêm nữa, để gã đi về.
Tông phái chủ chốt đã phản chiến, các chi nhánh còn lại của ma đạo tản mạn khắp nơi ở bên ngoài đều có ý định túm năm tụm ba vào hoạt động, một vài nhánh lặng lẽ chạy về tổng đàn, vài nhánh khác thì từ bỏ tổng đàn, tuyên bố mình mới là nhánh chính của ma đạo, không học được kiểu khúm núm nịnh bợ như Xích Luyện Tông, quyết tâm không đầu hàng bốn môn phái, tính dùng chiêu này để thu hút tín đồ, nhân cơ hội mở rộng thế lực.
Những tấm bia ấy dựng lên chỉ tổ bị ăn đòn.
Sau khi Từ Hành Chi và Mạnh Trọng Quang dẫn đệ tử đánh mấy ngọn núi, số người lặng lẽ quay về tổng đàn ma đạo dần nhiều hơn.
Hết hi vọng rồi, thế lực mới đã hình thành, giống như cái ngày bốn môn phái cũ bị tiêu diệt, bây giờ không ai cản được bốn môn phái mới nổi lên như ngôi sao mới.
Ngày mùng ba tháng ba, buổi lễ công bố của bốn môn phái sẽ được tiến hành.
Trước đó, quét sạch kẻ gây rối của ma đạo, sắp xếp lại danh sách thành viên mới của bốn môn phái, dựng lại trận pháp trấn giữ núi, chủ trương chỉnh lý thiết lập lại các công việc hàng ngày, các thể loại việc khiến ai nấy đều bận vắt chân lên cổ.
Đèn tê giác trong điện của Từ Hành Chi được thắp sáng một lần nữa, tỏa ra mùi thơm lạ lùng của sừng tê giác suốt ngày suốt đêm. Ảo ảnh của Khúc Trì, Từ Hành Chi và Chu Bắc Nam tụ tại một nơi, ai bận việc người nấy, thường hay bàn bạc công việc trong môn phái, hỗ trợ bổ sung cho nhau, cứ như tất cả mọi người đều quên mất việc thật ra đèn tê giác có bốn cái.
Nhưng vào một ngày nào đó trong tháng hai, ba người đang xử lý công việc trong phái của riêng mình, một vòng xoáy không khí trong suốt bỗng hiện lên trong không trung, như ánh mặt trời bừng lên với nền trời xanh lúc tờ mờ sáng.
Từ Hành Chi, Khúc Trì và Chu Bắc Nam không hẹn mà cùng ngẩng đầu lên nhìn, không ai nói gì, ai cũng biết điều mình đang chờ mong hoang đường cỡ nào.
Ánh sáng trắng của mặt trời dần bị luồng khí đánh tan, hóa thành bóng người mờ mờ.
Người ấy mặc bộ quần áo màu ve xanh, cổ tay đeo vòng âm dương gỗ táo bị sét đánh, mặt nạ quỷ lạnh lùng, lòng bàn tay nâng cái đèn, đó chính là Lục Ngự Cửu đã khoác lên mình trang phục cấp cao của Thanh Lương Cốc.
Ảo ảnh của cậu ta ở trong phòng, ngơ ngác nhìn xung quanh.
Trước kia cậu ta từng nghe nói, đệ tử đứng đầu bốn môn phái liên lạc bằng một chiếc đèn, nhưng vì cấp bậc của cậu ta quá thấp nên không thể vào nơi ở của Ôn Tuyết Trần, vì thế không biết cái đèn đó trông thế nào.
Năm đó ma đạo xông vào Thanh Lương Cốc tàn sát trắng trợn, nơi ở ngày trước của Ôn Tuyết Trần bị cướp hết sạch, đèn nghiêng đổ trên đất. Nhưng có lẽ vì cái đèn này do Từ Hành Chi tự tay làm, kiểu dáng quá khó coi, thật sự không giống bảo vật có điều huyền diệu vì thế nó bị đệ tử ma đạo không biết xem hàng tốt tưởng là đồ bình thường, tiện tay nhét vào căn phòng nhỏ cất trữ đồ linh tinh ở điện bên cạnh. Đến hôm nay mới được đệ tử nội môn quét dọn lấy ra, đưa cho Lục Ngự Cửu.
Nhìn thấy sự mong chờ ẩn trong mắt ba người dồn dập tan biến, khuôn mặt của Lục Ngự Cửu dưới mặt nạ nóng bừng lên, trịnh trọng mà ngượng ngùng vái chào: “Cốc chủ tân nhiệm của Thanh Lương Cốc Lục Ngự Cửu bái kiến ba vị sư huynh.”
Từ Hành Chi cười nói: “Ôi ôi ôi, khách sáo với bọn ta làm gì? Dậy dậy. Tình hình hiện giờ của Thanh Lương Cốc thế nào?”
Chỉ cần dăm ba câu, Từ Hành Chi đã có thể vớt lại bầu không khí ảm đạm vô cớ, với giọng điệu thoải mái trêu chọc của y, Lục Ngự Cửu cũng nhanh chóng hết ngại ngùng, đặt đèn tê giác lên bàn trước mặt, đi tới bàn đọc sách Ôn Tuyết Trần hay dùng ngày trước, vươn tay mài mực mới trong cái nghiên cũ.
Từ Hành Chi mỉm cười cúi đầu, bút đỏ phê duyệt lại ngừng.
Y nghe thấy tiếng cọt kẹt của xe lăn, vang vọng từ quá khứ xa xôi, kêu đến tận bây giờ, khóe mắt như thấy được sợi tóc bạc bay qua từ cửa sổ.
Trái tim Từ Hành Chi bỗng hoảng hốt, vô thức giương mắt lên nhìn, thấy mầm non liễu xanh bị gió thổi bay, lượn lờ như dải lụa dưới bầu trời quang đãng của mùa xuân.
Từ Hành Chi quay đầu nhìn lại, thấy Chu Bắc Nam cũng có vẻ thất vọng hụt hẫng giống mình.
Y nhìn chằm chằm lọ sứ xanh bày trên bàn Ôn Tuyết Trần ngày trước, hoảng hốt nghĩ, không biết bức thư tình Ôn Tuyết Trần viết từ nét từng chữ cho Tiểu Huyền Nhi vào năm đó có còn ở đấy hay không.
Trong ba người, chỉ có Khúc Trì vùi đầu phê duyệt sổ sách, vẻ mặt hờ hững như thường.
Hắn lớn hơn Từ Hành Chi bốn tuổi, hơn Chu Bắc Nam hai tuổi, năm tháng ngắn ngủi đọng lại trên người hắn thứ ánh sáng điềm tĩnh dị thường, vừa có vẻ ôn hòa, vừa có vẻ vô tình.
Thời gian lặng lẽ trôi qua, đảo mắt cái đã đến ngày ba tháng ba hoa đào nở rộ.
Lễ công bố của bốn môn phái mới được tổ chức ở Phong Lăng, từ trước đến nay Khúc Trì luôn làm việc ổn thỏa, tuyệt đối không có sai lầm, trong lúc chuẩn bị cho chuyện lớn này càng không lười biếng.
Từ ba ngày trước, hắn đã chọn ra người ở lại trông coi Đan Dương Phong, sắp xếp xong xuôi các đệ tử đến Phong Lăng tham dự buổi lễ, trận pháp mới dựng lại ở Đan Dương cũng đã mời Lục Ngự Cửu đến kiểm tra, đảm bảo cho dù sau khi hắn rời khỏi núi, có dư nghiệt ma đạo tới quấy rối thì đệ tử ở lại Đan Dương Phong cũng có thể thắng trăm phần trăm.
Sau khi giải quyết các công việc trong núi xong, Khúc Trì dậy thật sớm, chỉnh trang lại cho bản thân thật cẩn thận, vấn tóc đeo phát quan, thay bộ áo đỏ vừa dày vừa nặng chỉ mặc vào các buổi lễ trang trọng, thắt lưng ngọc trắng lỏng lẻo ở eo, nhìn qua gương đồng, quả là một quân tử trang nhã đoan chính.
Khi mặc đồ xong, hắn mới nhớ ra vẫn còn một việc quan trọng chưa làm.
Hắn xách bình nước lên, đi ra ngoài cửa sổ, vừa tưới nước cho cây đào nhỏ của mình vừa thầm nghĩ đến quy trình buổi lễ mấy canh giờ sau.
Tưới nước xong, hắn không để ý kỹ thêm, quay người định đi, trong lòng vẫn đang nghĩ mình nên nói gì trong buổi lễ.
Đột nhiên, hắn cảm thấy vạt áo bị gì đó kéo lại từ đằng sau.
Cảm nhận được lôi kéo dè dặt ấy, Khúc Trì chẳng nghĩ ngợi gì, khóe môi nhếch lên khẽ cười: “Đào…”
Tiếng nói im bặt đi.
Phía sau hắn không có ai cả, thứ mắc vào vạt áo hắn là cành nhỏ mới mọc lên ở phía dưới của cây đào, hình dáng rất giống ngón tay mảnh nhỏ một cách quá mức.
Từ nãy Khúc Trì chỉ mãi nghĩ đến buổi lễ, bây giờ nhìn kỹ lại mới thấy trên cây đào nhỏ đã có đầy lá xanh, thêm cả bông hoa nhỏ trắng hồng nhú lên ở đầu cành.
So với hoa đào bừng nở khắp núi, một hai đóa hoa nhỏ ở đây có vẻ cực kỳ lẻ loi, rất giống Đào Nhàn.
Đào Nhàn là vậy, chưa bao giờ dám chạm vào tay Khúc Trì. Nếu có chuyện cần gọi hắn, không phải nhỏ giọng gọi “Khúc sư huynh” thì cũng là vươn tay kéo vạt áo hoặc cổ tay áo hắn, dè dặt lắc lư, chỉ sợ xúc phạm hắn.
Cậu ấy ở hoa rồi.
Khúc Trì ngạc nhiên nghĩ: Cậu ấy nở hoa rồi, chuyện này xảy ra vào lúc nào vậy?
Hắn quay người lại, vươn tay nâng cành nhỏ đỏ hồng kia lên, hắn với hoa nhìn nhau, bông hoa ấy cũng cố gắng ngả vào lòng bàn tay Khúc Trì, không biết gió lay động, hoa rung rinh hay trái tim rung động.
Lát sau, một giọt nước mắt rơi xuống khỏi vành mắt Khúc Trì, cứ rơi hết giọt này đến giọt khác.
Nhìn đóa hoa yếu đuối mỏng manh, hắn nhớ tới Đào Nhàn, nhớ tới hoa đào nở khắp núi vào mười ba năm trước, nhớ tới máu tươi của đệ tử bốn môn phái, nhớ tới bạn cũ vùi mình trong cát vàng ở Man Hoang.
Từ trước đến nay, Khúc Trì luôn coi mình là một ngọn núi, tĩnh lặng, đáng tin cậy, dịu dàng, bao dung, trước một đóa hoa nhỏ yếu ớt, hắn rơi giọt nước mắt chưa từng xuất hiện trước mặt người khác.
Nửa khắc sau, bóng dáng Lâm Hảo Tín xuất hiện ở ngoài điện.
Hắn ta hành lễ với bóng lưng Khúc Trì đang đứng dưới tàng cây: “Sư huynh, đến giờ lên đường rồi.”
Khúc Trì vẫn quay lưng về phía hắn ta, không quay lại.
Lâm Hảo Tín thấy hơi lạ: “Sư huynh?”
Khúc Trì vẫn quay lưng về phía hắn ta nhưng giọng nói đã khôi phục vẻ thận trọng ngày trước: “Đi ngay đây.”
Hắn xoay người lại, bỏ bình nước xuống, gỡ phất trần chuôi ngọc ở chếch bên cửa xuống, hất lông hươu một cái, đặt lên cánh tay: “Đi thôi.”
Ngoại trừ khóe mắt ửng đỏ, trên mặt Khúc Trì không còn chút xíu thương cảm gì nữa, vừa như ôn hòa, vừa như vô tình.
Buổi lễ bắt đầu vào giữa trưa, đệ tử Thanh Lương Cốc tham gia buổi lễ, bao gồm cả Chu Bắc Nam đứng trên đài cao, ai cũng có hoa văn bốc khói màu tím ở giữa trán, để đảm bảo bọn họ có thể cử động dưới ánh mặt trời.
Trước điện Thanh Trúc của Phong Lăng Sơn, các đệ tử bốn môn phái chia nhau đứng xung quanh, kết cấu ngay ngắn nghiêm túc.
Chu Vọng dỡ bỏ hai thanh đao xuống, mặc bộ đồ màu xanh nhạt, đứng trước đội ngũ Thanh Lương Cốc, Mạnh Trọng Quang mặc trang phục của đệ tử Phong Lăng, Nguyên Như Trú thì khoác áo choàng đen kịt, hai người lần lượt đứng trên đầu và cuối cùng của đội ngũ Phong Lăng Sơn.
Từ Hành Chi, Chu Bắc Nam, Khúc Trì, Lục Ngự Cửu đứng trên đài cao, Khúc Trì chủ trì tuyên bố bốn môn phái mới được thành lập, chia thành bốn nhánh, tất cả quy định đều giống trước kia, không thay đổi nhiều lắm.
Trông có vẻ tất cả mọi thứ đều không thay đổi nhưng trong lòng mọi người đều khó tránh khỏi vang lên tiếng thở dài.
Mười bốn năm rồi.
Hi Hòa đánh xe vàng đã đi được ròng ròng rã mười bốn năm.
*Truyền thuyết Hi Hòa là người điều khiển mặt trời, ẩn ý về sự chảy trôi của thời gian.
May mà bốn môn phái tụ họp lần nữa, may mà thiếu niên chưa già, tinh thần vẫn còn đó.
Thấy buổi lễ sắp bước vào đoạn cuối, Khúc Trì cất giọng: “Mời sơn chủ tân nhiệm của Phong Lăng Sơn Từ Hành Chi lên viết lưu niệm cho bốn môn phái mới.”
Hành động viết lưu niệm vốn nên để Khúc Trì có tuổi tác và địa vị cao hơn làm nhưng trên thiên hạ biết rõ Từ Hành Chi có sách Thế Giới trong người, để y viết lưu niệm sẽ có ngụ ý hơn người khác.
Từ Hành Chi nghe vậy thì cất bước đi ra khỏi hàng, tay áo phải khẽ hất lên, để lộ cổ tay trắng ngần, tay gỗ vốn gắn trên cổ tay đã không còn, thay vào đó là một bàn tay phải bằng da bằng thịt, sinh động như thường, trên cổ tay thắt một cái dây màu lam nhạt, che đi vết sẹo ở vị trí nối.
Bên dưới có các đệ tử ở môn phái khác khẽ reo lên nhưng người quen biết Từ Hành Chi đều nở nụ cười hiểu rõ.
Vì nối lại cái tay này cho Từ Hành Chi, Mạnh Trọng Quang có thể nói là vất vả nhọc nhằn. Sau khi nối lại tay, mặc dù không thể cầm đao múa kiếm nhưng cầm bút viết chữ thì không thành vấn đề.
Từ Hành Chi lấy Bút nhàn rỗi ở bên hông ra, Mạnh Trọng Quang ở dưới đài cũng thầm hiểu ý, vung cao cuộn vải lĩnh trắng trong tay lên, treo nó lên cây sào ngọc xanh.
Vải lĩnh trắng rũ xuống, Từ Hành Chi cưỡi gió bay lên, Bút nhàn rỗi biến thành bút lông thấm đẫm mực xanh đen, viết ra hàng chữ thảo phóng khoáng trang nhã trên tấm vải lĩnh.
Từ Hành Chi xoay tay thu bút lại, trở tay cắn ngang bút vào miệng, lúc đáp xuống đài cao, dây buộc tóc cưỡi gió lả lướt nhẹ nhàng như thần.
Mạnh Trọng Quang nhìn toàn bộ động tác của Từ Hành Chi với vẻ si mê.
Bên cạnh Từ Hành Chi, đoạn vải lĩnh tung bay theo gió như lá cờ xí.
Sách Thế Giới, chở lịch sử, nhớ chuyện xưa, công dụng giống một quyển sách sử.
Sách sử thường được ghi chép bằng lối viết tỉ mỉ cẩn thận nhưng Từ Hành Chi thích chữ thảo nhất, vì thế bên dưới nét chữ như rồng bay phượng múa tuôn ra tám chữ to đẫm mực:
“Ngày tháng còn dài, vô biên với đời.”
(Chú thích: Nhân vật chính trong phần ngoại truyện này là Thanh Tĩnh Quân mang theo toàn bộ ký ức quay về đêm trước ngày đại chiến tiên ma, cố gắng thay đổi số mệnh.
Xưng hô của các nhân vật sẽ được thay đổi để phù hợp với độ tuổi ở ngoại truyện.)
Núi Bảo An vào đêm mây đen dày đặc, mưa rả rích, chân trời lóe lên ánh chớp lúc có lúc không, may là tiếng sấm không chói tai mà cứ bức bí như tiếng ngáy của ông trời.
Trước phòng thiền của Tiểu Thanh Quan, một tu sĩ trẻ vóc dáng cao gầy đang nhỏ giọng bàn bạc gì đó với một tu sĩ mặc áo xanh nhạt, đeo vòng âm dương.
Người trước mang vẻ nghiêm túc, gần như viết rõ bốn chữ “Nghiêm túc thận trọng” vào ngũ quan: “Theo ta nghĩ, tuần tra và phòng thủ của núi Bảo An cần tăng cường gấp đôi. Người của ma đạo có thể gây rối bất cứ lúc nào; tuyệt đối không thể giẫm vào vết xe đổ Lão Quân Quan Thanh Vân Sơn bị diệt!”
Đạo sĩ mặc áo xanh cũng bị vẻ nghiêm túc của hắn lây lan: “Vâng. Trận pháp của Thanh Lương Cốc đã được bố trí tầng tầng lớp lớp xung quanh núi. Lão Quân Quan đã bị diệt hết toàn quân, Tiểu Thanh Quan sẽ thành tuyến đầu của mặt trận, không được có sai sót gì.”
Nói đến đây, giọng điệu của đạo sĩ áo xanh thoáng thả lỏng: “May mà Vô Trần đến rồi. Có hắn trấn giữ ở đây, đệ tử của các môn phái có thể yên tâm hơn.”
Người kia không đồng tình: “Dù sư huynh đang ở đây, đệ tử bốn môn phái cũng căng não ra. Mấy hôm nay sư huynh cũng thức qua đêm, đề phòng có kẻ tới đánh, ta sợ cơ thể của huynh ấy không chống đỡ được, vừa nãy ta đã khuyên huynh ấy đi nghỉ một lát. Nếu người ma đạo nhân lúc này…”
Lời còn chưa dứt, trong phòng thiền bỗng vang lên tiếng chén vỡ, ngay sau đó có người chân trần bước xuống đất, tiếng chân bình bịch đi thẳng từ bên giường tới trước cửa.
Sau một tiếng sấm rền vang, cánh cửa vang lên tiếng kẽo kẹt mở toang ra, ánh nến trong phòng hắt ra ngoài từ sau lưng người ấy, phác họa ra bóng dáng tóc mai hơi rối.
Người ấy thở dốc như vừa tỉnh lại từ cơn mơ, không biết bây giờ là năm nào.
Tu sĩ mang gương mặt nghiêm túc tái mặt, bước lên mấy bước: “Sư huynh, làm sao thế?”
Người kia không đáp, chỉ lo nhìn cảnh tượng xung quanh, trên trán đầy mồ hôi, ánh mắt thẫn thờ một lúc lâu mới dừng lại trên gương mặt người đứng mặt trước mình.
Y như nói mớ: “Khê Vân… Là Khê Vân sao?”
Quảng Phủ Quân Nhạc Khê Vân cau mày, vươn tay lên định sờ trán y thử nhiệt độ: “Sư huynh, huynh nằm mơ thấy ác mộng à?”
Nhưng tay hắn vừa mới giơ lên được một nửa thì bị người kia nắm lại.
Lúc chạm vào bàn tay chai sần do cầm kiếm đầy chân thực ấy, đôi mắt vốn luôn biếng nhác rủ xuống của người kia bỗng hiện ra vẻ mừng rỡ như điên khó kiềm chế được.
Xưa giờ Nhạc Khê Vân không thích làm hành động quá thân mật với ai đó ở trước mặt người khác, bây giờ bị túm cho không động đậy được, biểu cảm nghiêm túc trên mặt sắp không giữ nổi nữa rồi, đã vừa mất quy củ lại còn không tiện vùng ra mạnh, hắn chỉ đành xoay người, lặng lẽ vặn cổ tay, cố gắng tránh thoát: “Sư huynh, Phù Diêu Quân vẫn đang ở đây… Sư huynh! Huynh lại lén uống rượu hả?”
Nhưng người kia lại không chột dạ vì bị mình bắt quả tang sau khi lén uống rượu giống trước kia, y thẳng thắn thừa nhận: “Ừ, ta uống say rồi.”
Nhạc Khê Vân: “…”
Khi hắn vất vả mãi mới đè cơn giận xuống được, định khuyên giải thêm thì người kia lại lên tiếng cắt ngang lời hắn: “Khê Vân, ta hỏi đệ, bây giờ đang là năm nào?”
Mắt Nhạc Khê Vân tối sầm xuống: “…”
Trong lúc ngàn cân treo sợi tóc thế này, rốt cuộc sư huynh đã uống bao nhiêu rượu?
Hắn chẳng buồn nói nữa nhưng người kia lại hỏi một câu tràn đầy hi vọng: “Năm Chinh Thú đầu tiên, đúng không?”
Trước đó một lúc.
Khi Thanh Tĩnh Quân Nhạc Vô Trần mở mắt thức giấc trên giường, tất cả mọi thứ đập vào mắt y đều như phủ kín khói bụi, tới lúc sương mù dần tan, y ngạc nhiên nhận ra mình không còn là linh hồn, có đủ tay chân, đủ các giác quan, thậm chí trên người còn có hương thơm nhàn nhạt của rượu hoa quế.
Y vươn mình ngồi dậy, thở dốc từng hơi.
Y nhớ nơi này, nhớ đêm sấm rền như bầy côn trùng kêu vo ve, nhớ hồi quá khứ xa xăm, trong tình huống y buồn ngủ cực độ rồi ngả đầu ngủ một giấc ở đạo quán nho nhỏ này.
Trong hoảng loạn và mừng rỡ đan xen, y đã làm vỡ một cái chén, ngọ nguậy chạy ra khỏi phòng thiền, nói hai câu với Nhạc Khê Vân rồi nhấc chân bước vào màn mưa phùn lất phất, nheo mắt lại nhìn câu đối của phòng thiền.
Tiểu Thanh Quan nằm ở chân núi phía nam của núi Bảo An, đặc sản nơi đây là hoa quế, rượu hoa quế càng là thứ nức tiếng gần xa, vì thế, kẻ thích rượu như mạng là y trong lúc chọn chỗ để nghỉ ngơi, liếc mắt cái đã thấy ưng câu đối viết về rượu hoa quế.
“Mừng vì bầu trời thoáng đãng trong lành, giống như uống được rượu hoa quế.”
Mưa lạnh bay vào mắt Nhạc Vô Trần nhưng y lại thấy mắt râm ran nóng lên.
Đúng là nơi này.
Y quay về rồi.
Không kịp ngẫm nghĩ tại sao mình lại quay về năm Chinh Thú đầu tiên khi cuộc chiến tiên ma bùng nổ, Nhạc Vô Trần vung ống tay áo, gọi bội kiếm “Duyên Quân” đến, tung mình nhảy lên.
Nhạc Khê Vân sững sờ, như vừa bừng tỉnh từ giấc mộng, bước tới túm chặt thắt lưng lỏng lẻo của Nhạc Vô Trần: “Sư huynh, huynh định đi đâu vậy?”
Nhạc Vô Trần trả lời ngắn gọn đanh thép: “Về Phong Lăng Sơn.”
Nhạc Khê Vân trố mắt: “Sư huynh, Huyết Tông của Tạp La đã ở nơi cách chỗ này không xa, có khả năng tập kích bất cứ lúc nào, huynh về núi vì có việc khẩn cấp cần xử lý sao? Đệ đi thay huynh là được!”
Nhạc Vô Trần đưa ra câu trả lời khiến Nhạc Khê Vân đau đầu: “Khê Vân, đệ yên tâm, chắc chắn tối nay ma đạo sẽ không đến.”
“Sao sư huynh biết được…”
Nhưng Nhạc Vô Trần không rảnh trả lời câu hỏi của hắn nữa. Trong lòng y tràn ngập lo lắng về một người khác, y tung người nhảy vọt lên thân kiếm, thậm chí áo ngoài và giày còn chưa mặc chưa xỏ.
Nhạc Khê Vân thấy không thể cản y đi được, đành phải vội kêu lên: “Sư huynh! Xỏ giày!”
Nhạc Vô Trần không để ý tới câu đó của hắn, biến thành ngọn gió mát, hoàn toàn biến mất khỏi tầm mắt hai người.
Môi Nhạc Khê Vân khép mở mấy lần nhưng không nói ra được chữ nào, trái tim trong lồng ngực đập loạn xạ, lưng cũng đổ mồ hôi nóng.
Người đáng tin cậy nhất đi mất, trong lòng hắn càng lo sợ.
Phù Diêu quân cũng bối rối khó xử trước hành động của Thanh Tĩnh Quân, nhưng thấy vẻ mặt Quảng Phủ Quân khó coi thì ngay lập tức cố gắng hết sức động viên: “Thanh Tĩnh Quân không chú ý chuyện vặt vãnh, biết tiến biết lùi trước chuyện quan trọng, chưa bao giờ sai sót. Hắn vội vàng đi như thế, chắc hẳn có việc gấp phải làm.”
Nhạc Khê Vân đỡ trán đi tới lui vài bước, quyết định, giậm chận một cái thật mạnh: “Thôi! Tuyệt đối không được nói chuyện sư huynh rời khỏi đạo quán cho các đệ tử khác biết! Tối nay ta tự mình phòng thủ đạo quán, nếu ma đạo đột kích, ta sẽ liều mạng với bọn chúng!”
Phù Diêu Quân lại an ủi hắn thêm mấy câu nhưng trong lòng không còn thấp thỏm lo âu như bị chiên rán nữa.
Câu nói Thanh Tĩnh Quân để lại trước khi đi lúc nãy thật sự quá chắc chắn, cứ như y đã biết chắc rằng ma đạo sẽ không tập kích vào tối nay.
Phong Lăng Sơn, thiếu niên Từ Hành Chi đang ngồi ở bậc cửa ở cửa chính, vắt chéo chân, cầm quạt trúc trong tay che mưa. Vì trong người cậu hỏa khí dồi dào nên không sợ cơn lạnh đêm mưa, vì thế cậu cởi áo ngoài ra, thoải mái buộc quanh eo.
Tu vi của Từ Hành Chi còn thấp, mặc dù có danh đồ đệ đứng đầu nhưng lại không có năng lực một mình chống đỡ một phương như Khúc Trì dưới trướng Minh Chiếu Quân của Đan Dương Phong, vì thế lúc Quảng Phủ Quân tập trung kiểm kê đệ tử, sau khi nghiền ngẫm suy tính đã chọn cậu ở lại trông giữ môn phái.
Tối nay chỉ có một vài đệ tử cấp thấp cùng ở lại với cậu, còn chưa hiểu rõ tính cách Từ Hành Chi, chỉ biết sư phụ vô cùng yêu thương cậu, trong lòng có đôi phần kiêng dè, ai nấy đều biến mình thành gốc cây, ngậm miệng không nói, chỉ sợ khiến vị đồ đệ đứng đầu chưa rõ tính nết này tức giận.
Từ Hành Chi ngồi im một lúc, thấy không có ai nói chuyện với mình, quả thực quá buồn chán, cậu bèn tự mình bắt chuyện trước: “Các ngươi đứng có mệt không?”
Các đệ tử không dám đáp.
Từ Hành Chi cầm quạt xòe nan trúc, gõ vào lòng bàn tay hết cái này đến cái khác: “Cần gì phải khổ thế chứ. Nếu ma đạo tấn công thì chắc chắn trạm trinh thám ở phía xa sẽ bắn tín hiệu, cũng khởi động trận pháp đóng kín núi lại. Chúng ta căng thẳng trong lòng thì thôi, nếu cứ thể hiện ra mặt thì rất dễ khiến lòng người bất an. Các ngươi thấy có đúng không?”
Từ Hành Chi nói chuyện mang theo ý cười khiến người ta nghe mà thấy vui vẻ, mặc dù các đệ tử vẫn hoài nghi cậu còn nhỏ, không biết mức độ nặng nhẹ của vấn đề nhưng không nhiều thì ít vẫn được giọng điệu tự tại của cậu an ủi.
Từ Hành Chi đang định mở miệng nói tiếp, đột nhiên cảm thấy có cơn gió phả vào mặt.
Trước khi các đệ tử phản ứng lại, quạt trúc trong tay Từ Hành Chi đã biến đổi hình dạng, lưỡi dao sắc bén theo tiếng chuông ở tay cậu chui ra khỏi vỏ, nhắm thẳng vào hư không, vỏ kiếm bị cậu tiện tay vứt qua một bên.
Thứ trong tay cậu là vũ khí quý giá mà gần đây cậu chợt nghĩ ra rồi chế tạo thành, có thể biến đổi hình dạng theo ý muốn, nhưng bây giờ mới chỉ là mẫu ban đầu, mới biến đổi được ba, bốn kiểu.
Từ Hành Chi nín hơi tập trung, sẵn sàng đón địch một lúc, cơ bắp căng cứng lên dần buông lỏng.
Cậu biết linh lực quen thuộc này bắt nguồn từ người nào rồi.
Nhưng đôi mắt cười của cậu vừa mới cong lên, người kia đã tung người nhảy xuống khỏi Duyên Quân, chân trần bước vội, không nói gì cả, ôm Từ Hành Chi vào lòng.
Từ Hành Chi đột nhiên bị Thanh Tĩnh Quân ôm chặt, đôi mắt đen như mực vội vàng đảo mấy vòng, hơi khó hiểu: “Sư phụ… Sư phụ? Chuyện gì thế?”
“Hành Chi.” Cậu nghe thấy giọng Thanh Tĩnh Quân hơi run: “Hành Chi…”
Tóc y hơi ẩm, lông mi run rẩy, mặt dính hai ba giọt nước rất nhỏ. Mưa lất phất đã thấm ướt hết áo trong mỏng manh của y, phác họa ra phần eo gầy mảnh và cơ bụng cơ ngực rõ ràng.
Chẳng biết vì sao, Từ Hành Chi lại cảm nhận được nỗi bi thương thê lương lạ thường trên người Thanh Tĩnh Quân trước giờ luôn không sầu lo không sợ gì. Cảm xúc ấy lây lan sang cậu, khiến trong lòng Từ Hành Chi cũng thấy khó chịu: “Sư phụ…”
Thanh Tĩnh Quân ôm cậu không nói gì.
Trong mười mấy năm u ám tối tăm, y ở trong nhẫn chứa đồ của Mạnh Trọng Quang, có nhận thức có cảm xúc, biết suy ngẫm.
Y nghe thấy tiếng khóc thất thanh của Từ Hành Chi trong ngõ rượu, nghe thấy tin buồn bốn môn phái bị diệt, nghe thấy tiếng gió cát trong Man Hoang và tiếng than khóc của các đệ tử.
Y biết nhân quả luân hồi, y biết tất cả mọi chuyện xảy ra ở thế giới bên ngoài, nhưng không thể làm gì.
Nhưng bây giờ y quay lại rồi, quay về thời điểm tất cả mọi chuyện chưa từng xảy ra, thời điểm mà y thừa sức cứu vãn mọi thứ.
Không đợi Từ Hành Chi hỏi tiếp, Thanh Tĩnh Quân vươn tay cầm cổ tay phải của cậu, không nói gì tháo cái chuông lục giác xuống, cầm trong lòng bàn tay, bóp vỡ nó!
Từ Hành Chi ngạc nhiên: “Sư phụ?”
Chắc chắn rằng cái chuông kia đã tan thành tro bụi trong tay mình, Thanh Tĩnh Quân mới tạm thời thả lỏng, dùng môi khẽ chạm lên mái tóc đen dày của thiếu niên: “Hành Chi, xin lỗi con.”
Từ Hành Chi dựa vào lồng ngực ấm áp của Thanh Tĩnh Quân, không biết tại sao y lại xin lỗi nhưng có thể cảm nhận được sự dịu dàng và thương tiếc vô bờ của y. Vì thế cậu kiềm chế sự tò mò lại, không cố hỏi tại sao sư phụ lại đột nhiên quay về lúc giữa đêm từ mặt trận chính trong cuộc chiến tiên ma nữa, để mặc y ôm mình, còn nhân cơ hội này ra vẻ ngoan ngoãn làm nũng cọ mấy lần.
Thanh Tĩnh Quân mỉm cười, vuốt tóc trên trán cậu, ngầm đồng ý cho Từ Hành Chi làm xằng làm bậy trước ngực mình.
Các đệ tử ở lại trông coi môn phái đều có cấp bậc thấp, làm gì có ai từng thấy gương mặt thật của Thanh Tĩnh Quân ở khoảng cách gần thế này đâu, nhất thời ai nấy đều ngậm miệng im lặng, chỉ sửng sốt nhìn người được đồn là kẻ mạnh nhất trong thế hệ mới của bốn môn phái trân quý ôm đồ đệ của mình như ôm bảo vật mất đi rồi có lại.
Từ Hành Chi chưa phát hiện ra sự ngạc nhiên và ao ước của các đệ tử xung quanh, cậu xoay cổ tay, chỉ cảm thấy nơi này trống trải, không quen lắm.
Cậu cũng khá thích cái chuông này.
Trong núi Thanh Vân cách Tiểu Thanh Quan năm mươi dặm, một người đàn ông mặc áo tím đậm ngửa cổ uống cạn một chén rượu hoa quế, liếm môi, có vẻ rất thích mùi vị này.
Nhập Tái, chủ ma đạo nhìn hắn ta uống rượu vô tư như thế thì hơi lo lắng: “Nhị đệ, sắp phải đánh một trận lớn rồi, nếu đệ uống say thì phải làm sao?”
Người được Nhập Tái gọi là “Nhị đệ” có làn da màu đen nhạt tự nhiên nhưng không hề làm giảm bớt vẻ đẹp tà dị của hắn ta, đôi mắt màu xanh xám lạnh lùng trong veo, tràn ngập ý chê cười: “Rượu này mà khiến người ta say được à? Hơn nữa “sắp phải đánh một trận lớn” gì chứ? Huynh không chịu thừa thắng xông lên, luôn miệng nói thời cơ tiến đánh, kiềm chế, thế huynh cứ chờ thời cơ tiến đánh của huynh đi, ta uống rượu của ta thôi.”
Nhập Tái cực kỳ bất đắc dĩ với đệ đệ không biết bày mưu tính kế, chỉ biết làm xằng làm ẩu của mình: “Mấy ngày trước bốn môn phái bị tổn thất nặng nề, chắc chắn đợt này Tiểu Thanh Quan phòng vệ nghiêm ngặt, chúng ta cần gì phải chạm vào cái đinh cứng này? Chi bằng chờ bọn chúng phòng thủ đến mệt, chúng ta sẽ…”
Tạp La nhếch miệng cười: “Đinh không cứng thì chạm vào có gì thú vị nữa?”
Nhập Tái nghe hắn ta nói lời hoang đường, thật sự không thể chịu được việc hắn ta uống rượu quá giới hạn tiếp, Nhập Tái vươn tay ấn miệng chén của hắn ta xuống: “Tạp La! Đệ nghe rõ cho ta, Phong Lăng Sơn Nhạc Vô Trần cũng tới Tiểu Thanh Quan, lần tới đánh giáp lá cà, tám mươi đến chín mươi phần trăm đệ sẽ đối đầu với hắn. Mười mấy năm qua hắn luôn đứng đầu cuộc thi Thiên bảng của bốn môn phái, đệ không thể khinh thường, có nghe thấy không?”
“Chuyện cười.” Tạp La bĩu môi, khinh thường nói: “Đám đạo sĩ thối của chính đạo ấy, thi đấu trên võ đài đều nói đánh phải biết điểm dừng. Không làm bị thương chảy máu, không giết người thì đấu võ có gì thú vị chứ? Hơn nữa, đứng đầu Thiên bảng thì đã sao? Một đám cừu đánh nhau trong chuồng, con cừu đầu đàn thắng cuộc lại có thể thắng cả sói chắc?”
Nói xong, hắn ta gạt tay Nhập Tái ra, cười nói: “Đệ cũng muốn xem thử, con cừu non xếp hạng nhất ấy có gì khác biệt với những con cừu khác.”
Quảng Phủ Quân lo lắng tới tận nửa đêm, cuối cùng Thanh Tĩnh Quân cũng từ Phong Lăng Sơn quay về.
Y đi chân trần, về vẫn chân trần, vì đi qua không ít đường núi nên hai chân có thêm mấy vết tím bầm, cả người đội mưa ướt đẫm.
Nhìn thấy tình trạng đó, Quảng Phủ Quân tạm thời thu hồi ý định nói lý lẽ lại, đi lấy nước sạch ở bên suối trước, đun nóng lên rồi hầu hạ y rửa mặt rửa chân.
Thanh Tĩnh Quân cởi áo cánh ra, nhúng nước nóng lau cơ thể, chà cho cả người nóng bừng lên bốc cả khói trắng.
Quảng Phủ Quân và Thanh Tĩnh Quân đã chung sống với nhau từ nhỏ, lúc trẻ còn ngủ chung, vì thế hắn đã quen với dáng vẻ y không mặc áo mũ rồi, bèn ở lại trong phòng không đi.
Hắn nhấc bình trà lên rót một chén nước, nhuận họng, đưa ra câu hỏi làm nền cho phần giảng giải dài dòng: “Sư huynh, huynh đi đâu thế?”
Thanh Tĩnh Quân thẳng thắn trả lời: “Nhớ Hành Chi nên về Phong Lăng nhìn thằng bé một cái.”
Quảng Phủ Quân sặc nước, ho khan liên tục: “Từ Hành Chi?”
Thanh Tĩnh Quân dùng khăn mặt vẩy nước lên, lau thân thể xa cách đã lâu của mình: “Ừ.”
“Sư huynh!” Quảng Phủ Quân cả giận nói: “Bây giờ là lúc nào? Huynh vì Từ Hành Chi mà lén rời khỏi địa điểm quan trọng…”
Thanh Tĩnh Quân ngắt lời hắn: “Khê Vân, thằng bé đáng giá.”
Từ Hành Chi với một cánh tay không hoàn chỉnh, cô đơn một thân một mình, đối mặt với ma đạo đã giành được thắng lợi áp đảo nhưng vẫn về Phong Lăng Sơn báo thù cho sư môn, đáng để y làm bất cứ chuyện gì vì cậu.
Quảng Phủ Quân nhận ra Thanh Tĩnh Quân có gì đó không đúng.
Trước kia dù sư huynh cưng chiều Từ Hành Chi cỡ nào, lúc hắn phê bình trách mắng, hầu như y đều nhẹ nhàng, không thể hiện vẻ thiên vị bao che, chưa bao giờ dứt khoát thế này.
Quảng Phủ Quân thử thăm dò hỏi: “Sư huynh, rốt cuộc huynh bị làm sao thế?”
Thanh Tĩnh Quân không muốn nói ra chuyện mình đã trải qua, không phải y sợ Quảng Phủ Quân không tin, mà là sợ tiết lộ thiên cơ, nhận phải tai họa, chỉ đành viện cớ: “Đêm nay sư phụ báo mộng cho ta.”
Nghe thấy tên của sư phụ Xích Hồng Quân, Quảng Phủ Quân khựng người: “Sư phụ nói gì?”
Thanh Tĩnh Quân chậm rãi nói: “Sách Thế Giới… Không phải thứ có sức mạnh to lớn như chúng ta tưởng tượng.”
Chờ Thanh Tĩnh Quân tắm rửa xong, ngâm đôi chân đầy vết thâm tím vào nước, y đã cố gắng hết mức nói những điều mình biết ở kiếp trước cho Thanh Tĩnh Quân nghe: “Sách Thế Giới trong cơ thể Hành Chi chỉ là bản khuyết thiếu, không có hiệu quả viết ra là thành sự thật; trước kia chúng ta đề phòng thằng bé như thế, thật sự quá không công bằng với thằng bé.”
Quảng Phủ Quân biết, mặc dù sư huynh hoang đường vô lý nhưng từ trước đến nay cực kỳ tôn sùng Xích Hồng Quân, y sẽ không mượn danh sư phụ để bịa chuyện, lại nghe Thanh Tĩnh Quân nói các chi tiết nhỏ cực kỳ chân thực nên hắn có đôi phần dao động, vì thế bèn im lặng không nói nữa.
Thần khí của bốn môn phái không có cái nào là thật, sự thật này khiến đường lui cuối cùng trong lòng Quảng Phủ Quân cũng bị chặn kín luôn.
Một lát sau, hắn hít một hơi thật sâu: “Nếu lần này ma đạo chiếm thế thượng phong, chúng ta không thể bảo vệ sự nghiệp sư phụ để lại, dù bỏ mình hồn phách tan biến cũng khó chuộc tội được.”
Thanh Tĩnh Quân nghe vậy thì lau bội kiếm Duyên Quân, điềm tĩnh nói: “Bảo vệ được.”
Quảng Phủ Quân chỉ coi sư huynh đang an ủi mình, nói tiếp: “Sư huynh, huynh cứ yên tâm. Không có thần khí kề bên, đệ còn bội kiếm bên hông, còn có tính mạng này của đệ… Đệ sẽ dùng mạng sống bảo vệ Phong Lăng, tới chết mới thôi.”
Thanh Tĩnh Quân biết Quảng Phủ Quân không nói ngoa.
Kiếp trước, Nhạc Khê Vân đã đánh hết khả năng của mình tới tận giây phút cùng.
Ở núi thây trong Man Hoang, Mạnh Trọng Quang giết hắn mười mấy lần cũng không thể nhận ra quái vật ăn thịt nuốt tim người là ai, nhưng Thanh Tĩnh Quân và Quảng Phủ Quân theo học cùng một thầy, làm huynh đệ đồng bào từ nhỏ, sao y lại không nhận ra đó là ai được cơ chứ?
Trái tim Thanh Tĩnh Quân đau nhói, trên mặt lại chẳng có chút xíu khác thường gì, ung dung cười giỡn: “Tính mạng của Khê Vân vẫn nên giữ lại để xử lý công việc trong Phong Lăng đi. Nếu không thì còn mình ta trên đời, không ai lo rượu và sinh hoạt hằng ngày cho ta, thế chẳng phải cực kỳ tồi tệ sao?”
Quảng Phủ Quân bị câu đó của y làm cho không kiềm chế được biểu cảm, lý tưởng hào hùng đang bừng bừng cũng bị biến đổi, không nhịn được hắng giọng: “Hôm nay sư huynh nói nhiều điều kì lạ quá, chắc tại vì uống rượu quá nhiều, trước trận chiến chớ nên động vào rượu nữa. Bầu rượu của sư huynh ở đâu? Đệ tạm thời bảo quản thay sư huynh.”
Thanh Tĩnh Quân cười: “Đệ lục soát đi.”
Quảng Phủ Quân không ngờ lúc này rồi mà Thanh Tĩnh Quân vẫn có tâm trạng đùa giỡn, hắn tức giận nói: “Sư huynh!”
Thanh Tĩnh Quân nhìn Quảng Phủ Quân chăm chú bằng ánh mắt dịu dàng, ngay lập tức khiến hắn không còn giận nữa, chấp nhận số phận chậc một tiếng, cởi giày lên giường, lật từng cái chăn đệm lên một, nghiêm túc kiểm tra, miệng vẫn lải nhải: “Uống rượu không tốt cho cơ thể, càng không có lợi ích gì với tu luyện tâm trí của bản thân, sư huynh vẫn nên cai rượu sớm thì hơn…”
Thanh Tĩnh Quân nhắm mắt lại, tập trung lắng nghe, chỉ cảm thấy tiếng càm ràm thân thiết ấy hệt như âm thanh của tự nhiên.
Gặp lại bạn bè người thân rồi thì cũng nên đi gặp kẻ thù một lần.
Ba ngày sau, nửa đêm giờ dần hai khắc, vào lúc người ta ngủ say nhất, tinh thần rã rời nhất, Nhập Tái của ma đạo dẫn phần lớn ma tu tiến thẳng tới núi Bảo An.
Hắn ta dự đoán rằng suốt mấy ngày nay tu sĩ của bốn môn phái luôn trong trạng thái tinh thần căng thẳng, chuẩn bị ứng chiến bất cứ lúc nào, chắc hẳn đã mệt mỏi cực độ, ai ngờ vừa mới giáp mặt, Nhập Tái thoáng biến sắc.
Dường như đệ tử bốn môn phái đã chuẩn bị từ lâu, ai nấy đều đâu vào đấy, ung dung từ tốn, bày bố trận pháp, phòng ngự chặt chẽ, cứ như đã biết trước ma đạo lên đường vào canh giờ nào, chỉ đào một cái hố lặng lẽ đợi bọn họ chui vào.
Nhập Tái khổ tâm chờ đợi thời cơ tấn công nhiều ngày như thế, bây giờ xem ra đã biến thành một trò cười.
Trong lúc hắn ta nghi ngờ liệu có phải trong ma đạo có kẻ phản bội hay không thì nhìn thấy trận hình bên đối diện rẽ ra một lối đi, một thanh niên dáng người như ngọc chậm rãi bước ra từ đó.
Thanh Tĩnh Quân mặc bộ quần áo màu trắng thuần như mây bay trên trời, đeo trường kiếm bên hông, không giống kiếm tu mà cực kỳ giống một văn sĩ quân tử.
Tạp La không có nhiều cảm xúc với trận địa sẵn sàng nghênh địch của bốn môn phái, nhưng hắn ta vừa nhìn thấy Thanh Tĩnh Quân đã tươi cười: “Ôi, một con cừu non da mỏng thịt mềm kìa.”
Mặc dù Nhập Tái không muốn khinh thường đối thủ nhưng người trước mặt quả thực là một người đẹp, phong thái nho nhã yếu ớt, thân hình cũng không cường tráng, thật sự không có vẻ anh tuấn uy vũ như trong lời đồn.
Tạp La mỉm cười, thẳng thắn đánh giá y từ đầu đến chân, giọng nói không nhỏ gì cho cam: “Mặc xiêm y lỏng lẻo như thế làm nhìn thấy cả mông kìa, vểnh cao ghê.”
Các đệ tử bên cạnh Thanh Tĩnh Quân nghe thấy ma đầu bên đối diện dám to gan sỉ nhục tôn trưởng của mình như thế thì ầm ầm cả lên, nhưng Thanh Tĩnh Quân chỉ đặt tay phải lên chuôi kiếm, lòng bình lặng như nước.
Kiếp trước, lúc Thanh Tĩnh Quân đánh với Tạp La không hề chú ý vẻ ngoài Tạp La trông ra sao, chỉ nhớ vẻ kiêu căng ngạo mạn của đối phương, bây giờ nhìn kỹ lại, quả thật là ngoại trừ gương mặt ra, hắn ta chẳng có gì hơn người.
Nhưng y không nóng lòng ra tay, chỉ tính toán thiệt hơn nhiều lần trong lòng:
Lần trước giao chiến, mình chém chết thân xác hắn ta, Nguyên anh Tạp La trốn ra, được đồ đệ của hắn ta là Lục Vân Hạc đón đi, nhưng số người có thể chứa được hồn phách Nguyên anh của hắn ta trên đời này rất ít, vì thế hắn ta du đãng ở trần gian mười mấy năm, không dễ dàng gì mới chui được vào chỗ sơ hở, lặng lẽ lợi dụng Cửu Chi Đăng, thành công chiếm được nơi trú thân của mình.
Vì thế vấn đề đến rồi: Y nên giết Lục Vân Hạc trước hay là nhổ cỏ tận gốc, bóp nát hồn hạch của Tạp La luôn cho xong?
Tạp La thấy cừu non bình tĩnh hờ hững thì càng muốn trêu chọc.
Hắn ta bước một bước ra khỏi hàng, biết rõ mà còn hỏi: “Cô nương, xin hỏi tên họ là gì, bao nhiêu xuân xanh rồi?”
Đám đệ tử ma đạo phía sau Tạp La cười ầm lên đầy càn rỡ.
Lời đó của Tạp La không phải công kích bừa bãi, ngoại trừ mái tóc đen mượt được vấn gọn gàng ra thì người trước mặt có lông ở các nơi khác cực kỳ thưa thớt, cằm còn chẳng có râu, trơn bóng chẳng khác gì các cô gái, lại có thêm vẻ trang nhã quý phái mà các cô gái bình thường không có, khiến người ta có kích động muốn rút trâm cài tóc của y ra, xoa rối tung mái tóc của y.
Trong tiếng cười chế giễu ấy, Thanh Tĩnh Quân không hề xao động, chậm rãi nói: “Tại hạ là Nhạc Vô Trần, tới để xin chỉ giáo.”
Tạp La lại cười khẩy vì lời đáp lại nho nhã của y, trong lòng càng thêm khinh thường.
Quảng Phủ Quân ở phía sau Thanh Tĩnh Quân lại nhận ra điều không bình thường.
Từ trước đến nay người trong tiên đạo đều giới thiệu tên hiệu của mình với người khác, bình thường sẽ là tên môn phái đầu tiên, giữa là tên hiệu, cuối cùng là họ tên, nếu muốn mời đánh nhau trong trường hợp chính thức thì với thân phận của sư huynh, trong trường hợp này, y nên giới thiệu là “Phong Lăng Thanh Tĩnh Quân Nhạc Vô Trần” mới phải.
Chỉ giới thiệu là “Nhạc Vô Trần” không hợp với quy củ, nghe không giống thay trời hành đạo mà như báo thù riêng…
Không để hắn nghĩ xong, Tạp La đã vung tay áo lên, một thanh kiếm cổ màu đồng chui ra khỏi tay áo hắn ta như con rắn độc, nhắm thẳng eo Thanh Tĩnh Quân mà cắn!
Chiêu này của hắn ta không có sát ý, chỉ muốn làm rơi thắt lưng của y trước trận đánh, làm Nhạc Vô Trần mất mặt, nhưng kiếm thế tấn công bất ngờ lại rơi trúng khoảng không.
Tạp La sững sờ, trước mắt bỗng lóe lên luồng ánh sáng xanh đỏ, dự cảm xấu như ngọn lửa hừng hực lan tràn mù mịt trong lòng hắn ta!
Hắn ta ngửa lên trước lăn một vòng, gắng gượng tránh thoát, bên gáy vẫn còn ý lạnh xẹt qua, ngay sau đó là luồng nhiệt bắn tung tóe.
Chỉ trong nháy mắt, Thanh Tĩnh Quân bay đến phía sau Tạp La như quỷ mị, bóng người như mây trôi, kiếm rơi thành lửa, suýt thì cắt mất đầu Tạp La!
Thanh Tĩnh Quân không cử động thì thôi chứ mới động một cái là Tạp La đã biết người này không yếu đuối dễ bắt nạt như vẻ ngoài.
Hắn ta thu hồi sự coi thường, túm lại thanh kiếm đồng vào lòng bàn tay, nổi màn sương máu lên quanh người, như rồng lửa bay múa cuồng loạn.
Sương mù của Huyết Tông do linh lực Huyết Tông tạo thành, chứa cả kịch độc, bị dính vào mắt có thể bị mù, mà còn có công dụng hấp thụ linh lực để bản thân sử dụng.
Thanh Tĩnh Quân nhớ trong trận chiến đầu tiên với Tạp La vào năm đó, Tạp La có được ưu thế dùng gió Tây Bắc, vừa khiến người khác không thể áp sát vừa để sương máu bay vào trong đội ngũ đệ tử bốn môn phái, suýt thì gây ra tai họa lớn.
Tạp La đứng thẳng dậy trong màn sương máu, xoay cổ, đôi mắt xanh xám càng thêm sâu thẳm, cười khẩy nói: “Nhạc Vô Trần, đến đây đi.”
Trước trận chiến mà Tạp La bị dẫn dắt đi một cách dễ dàng như thế, còn chưa bàn bạc gì với mình mà đã dựng màn sương máu lên, Nhập Tái bỗng cảm thấy đau đầu, may mà bọn họ nằm ở vị trí ngược chiều gió so với sương máu, hắn ta đang định ra hiệu đệ tử bên dưới nhân cơ hội này đổ thêm dầu vào lửa, mượn gió tấn công thì nghe thấy một tu sĩ áo xanh bên đối diện gằn giọng hô lên trước: “Đệ tử Thanh Lương Cốc, trận pháp gió!”
Nhập Tái có chết cũng không thể ngờ đệ tử bốn môn phái đã chuẩn bị trận pháp gió từ trước!
Vì sao?
Kế hoạch tấn công trước đó của bọn họ bị bốn môn phái biết còn có thể giải thích là có nội gián; bây giờ Tạp La tự ý tạo sương máu, rõ ràng là hành vi tùy hứng của hắn ta, vì sao vẫn nằm trong kế hoạch của đối phương?
Nhập Tái không kịp nghĩ kỹ, gào lên với Tạp La như điên: “Tạp La! Mau thu sương máu lại!”
Nhưng tên đã được lắp vào cung, trận pháp gió đã hình thành.
Trong nháy mắt, gió Tây Bắc xoay chuyển thành gió Đông Nam, sương máu mù mịt quanh người Tạp La bỗng tan ra, bay ngược về phía ma đạo!
Giây phút màn sương máu bảo vệ tách khỏi thân thể Tạp La, Thanh Tĩnh Quân áp sát tới bên cạnh hắn ta một lần nữa, chém một kiếm!
Tạp La không rảnh mà lo cho sương máu tản ra được, lúc thanh kiếm đồng gắng gượng chặn đón ánh kiếm bổ xuống, bên tai hắn ta vang lên tiếng kêu la thảm thiết của đệ tử ma đạo.
Đệ tử đứng hàng đầu ôm đôi mắt sưng đỏ, ngã xuống túi bụi, lăn lộn đầy đất, mặc dù Nhập Tái lùi lại cực nhanh nhưng mắt vẫn không tránh khỏi sự kích thích, ngứa đau không chịu nổi nên dùng cổ tay áo che mắt, nước mắt rơi đầm đìa.
Thấy ma đạo trước mặt bị phép thuật của chính phe mình làm cho rối loạn, các đệ tử phấn chấn lên hẳn, Phong Lăng Sơn Quảng Phủ Quân, Thanh Lương Cốc Phù Diêu Quân, Đan Dương Phong Minh Chiếu Quân và Ứng Thiên Xuyên Chu Vân Liệt đứng đầu đội ngũ liếc mắt nhìn nhau rồi cùng nhau giơ kiếm hô hào: “Đệ tử bốn môn phái, chém kẻ ác! Trừ ma!”
Nhập Tái nước mắt giàn giụa, trước mắt mờ căm, thính giác theo đó mà trở nên nhạy bén hơn.
Hắn ta nghe thấy rất rõ, tiếng hô giết không ngừng tiến về phía mình từ đằng trước, hai bên và đằng sau, tiếng giết vang dội ập tới, hung hãn cắt đôi đội ngũ ma đạo thành hai phần từ đoạn giữa!
Bọn họ chui vào trận địa hình túi!
Ngay cả phương hướng bọn họ đi cũng bị đối phương đoán ra ư?
Nhập Tái mắt thì hoa, tai thì nghe thấy tiếng đệ tử bên cạnh kêu rên cực kỳ sợ hãi vì bị mù, lại nghe thấy tiếng kiếm ngân vang như thổi tiêu ở đằng trước, trong lòng bỗng hoảng loạn, men theo tiếng rên mà với tay lần mò, kéo hai tên đệ tử bị mù tạm thời lại rồi đẩy lên trước!
Máu tươi trào ra bắn tóe lên người Nhập Tái, càng khiến hắn ta điên cuồng hơn, túm hết tất cả lá chắn hình người ở phía trước mình rồi ném đi, mãi đến tận khi lùi xuống khu vực không bị sương máu bao phủ, được một đám đệ tử luống cuống tay chân bảo vệ, hắn ta mới thả lỏng, ngồi sụp xuống đất bùn ẩm ướt.
Tiêu rồi.
Hắn ta dẫn đệ tử ma đạo xông vào thiên la địa võng đã được tính toán kỹ lưỡng tỉ mỉ.
Tới khi hắn ta bừng tỉnh lại từ trong mơ màng, đầu đầy mồ hôi mới nhớ ra một chuyện cực kỳ quan trọng, thất thanh kêu lên: “Tạp La! Quay lại! Mau quay lại!”
Nhưng đằng trước làm gì còn bóng dáng Tạp La đâu nữa!
Tạp La và Nhạc Vô Trần đánh vào trong rừng rậm rồi bay lên không trung, ánh kiếm di chuyển không ngừng, chằng chịt khắp nơi, ép cho Tạp La không mắng ra nổi một câu thô tục.
Chết tiệt! Tên họ Nhạc này có mối thù giết phụ thân cướp thê tử gì với mình sao?
Hắn ta chưa thích ứng được với kiếm pháp phiêu dật như cánh bèo, linh động như yêu ma của Nhạc Vô Trần, nhưng y lại như quen biết hắn ta nhiều năm, tỉ mỉ tính ra hết mỗi một độc chiêu của hắn ta, sau đó hóa giải hết một cách nhẹ nhàng hời hợt.
Từ đầu đến cuối Tạp La đều không chạy thoát khỏi ánh kiếm tựa mưa rào ấy, chỉ có thể tránh né suốt một đường, từ núi Bảo An lùi tới núi Hoài Ninh bên cạnh, thanh kiếm đồng của hắn ta đã bị mẻ lưỡi từ lâu, quanh người cũng bị cắt mấy vết thương to nhỏ.
Hắn ta chỉ đành chui vào mảnh rừng tùng trên núi Hoài Ninh, mong rằng có thể tạm thời tránh sự tấn công, nhưng Thanh Tĩnh Quân không thả hắn ta đi theo mong muốn của hắn ta mà vung kiếm đuổi thẳng vào.
Mũi kiếm nhanh như tia chớp, thề phải chặt đứt tất cả những thứ mình nhìn thấy ở trước mắt.
Nhạc Vô Trần không nhìn thấy tất cả những vật cản trở như lùm cây, bụi cỏ, rừng tùng, cũng chẳng thèm để ý tới chúng.
Trong mắt y chỉ có Tạp La.
Cuối cùng, một cây tùng đổ xuống quẹt vào lưng Tạp La đang chạy trốn trong chật vật, chém ngang lưng hắn ta thành cái miệng máu, khiến tốc độ tiến bước của hắn ta thoáng ngưng lại.
Chỉ trong vài giây ngắn ngủi, Nhạc Vô Trần đến gần hắn ta, một tay cầm vỏ kiếm chống vào gáy Tạp La, tay kia cầm kiếm, đâm vào vai hắn ta chẳng chút nể nang, đóng hắn ta vào bùn đất trải đầy thực vật mục rữa.
Tạp La bỗng thấy cổ họng hơi ngọt, nhưng ngay cả máu còn chưa kịp nhổ ra, miệng mũi đã đồng loạt bị nhấn vào trong bùn, lưỡi kiếm đồng sứt mẻ xoay một vòng bay ra, kêu ong một tiếng, cắm vào thân cây già trăm năm.
Tạp La vốn là kẻ liều mạng, đây là lần đầu tiên thấy một tu sĩ chính đạo không cần mạng hơn cả mình.
Nhưng dù sao Tạp La cũng là Tạp La, rơi vào hoàn cảnh này rồi vẫn không chịu chết một cách dễ dàng, hắn ta đẩy bả vai bị kiếm đâm lên, để mặc Duyên Quân xuyên qua vai, thọc thẳng tới cán kiếm, sau đó gào lên, giãy giụa nhổm người dậy, gắng gượng nhấc người khỏi mặt đất, lăn sang bên cạnh một vòng, túm lấy vạt áo Nhạc Vô Trần, ôm lấy eo y, dùng mũi kiếm dính đầy máu tươi đâm vào ngực y!
Chỉ trong chớp mắt, phản ứng của Nhạc Vô Trần chẳng kém hắn ta chút nào, y dùng tay không nắm chặt lưỡi kiếm, biến lưỡi kiếm sắc bén thành cái dao cầu, dập vào máu thịt bên miệng vết thương của hắn ta!
Tạp La bỗng hét lên đầy đau đớn, đôi mắt căng trướng lên hiện ra đầy tơ máu, nhấc đầu gối lên đá vào bụng dưới của Nhạc Vô Trần nhưng dù dùng sức nện thế nào, hắn ta đều như va phải tường đồng vách sắt im lìm.
Máu tươi nhỏ giọt xuống từ lòng bàn tay Nhạc Vô Trần, mà y cứ như không hề cảm thấy đau đớn, tụ linh lực vào đan nguyên của Tạp La, ánh mắt chợt đanh lại đầy lạnh lùng, dồn hết linh khí toàn thân tụ thành cái búa tạ, đập thẳng vào bản thể Nguyên anh của hắn ta!
Nguyên anh bị thương, nỗi đau ấy không phải thứ người bình thường có thể chịu đựng được, Tạp La trợn trừng mắt lên, gào thét thảm thiết, cả người mất hết sức lực, cơ thể xụi lơ, mất hết tri giác, ngất xỉu tại chỗ.
Tay Nhạc Vô Trần dính đầy máu tươi, tóc mai rối tung ngồi giữa rừng, tới giây phút này luồng khí hỗn loạn đè nén trong lồng ngực ngay từ khi bắt đầu đánh chiến cuồng loạn mới tuôn ra.
Y thở hổn hển từng hơi, mồ hôi lạnh chảy ào ào xuống theo gương mặt.
Nếu Quảng Phủ Quân ở đây, e rằng cũng hãi hùng trước lối đánh giết liều mạng của Nhạc Vô Trần.
Thế này là sao?
Từ trước đến nay, Nhạc Vô Trần luôn thanh lịch sạch sẽ, lúc múa kiếm cũng mang phong thái nhẹ nhàng cưỡi gió của người quân tử, cần gì phải làm cho người dính đầy nước và bùn lăn lộn với người khác chứ?
Đấu vật ngoài đường cũng chỉ thế này mà thôi.
Nhưng Nhạc Vô Trần cứ nghĩ đến tay phải bị bóp nát xương của Từ Hành Chi và vẻ luống cuống tuyệt vọng ngập tràn trong mắt cậu khi bị ghim trên cột ngọc trắng trước điện, y không thể giữ tỉnh táo nổi, chỉ muốn lấy lại hết toàn bộ món nợ của Hành Chi ở chỗ Tạp La.
Tới khi y bình tĩnh lại thì Tạp La đã bị thương nặng, hơi thở thoi thóp rồi.
Tạp La không biết, đây là lần đầu tiên hắn ta đánh nhau với Nhạc Vô Trần nhưng Nhạc Vô Trần đã đánh với hắn ta không chỉ một lần, trong năm tháng u tối dài đằng đẵng, y đã tưởng tượng vô số lần phải đối xử với kẻ thù cũ này như thế nào.
Bây giờ Nhạc Vô Trần chiếm thế thượng phong, nhanh hơn lần giết hắn ta trước đó gần nửa canh giờ.
Trả mối thù riêng xong, Nhạc Vô Trần thở dốc một lúc rồi quay về Thanh Tĩnh Quân ôn hòa thuần hậu.
Y chống thân cây chậm rãi đứng dậy, giấu bàn tay chảy máu vào trong tay áo, đi tới bên cạnh Tạp La, dựa vào ánh sao cụp mắt nhìn khuôn mặt đẫm máu của người kia.
Chỉ cần y bóp nát hồn hạch, tất cả mọi thứ sẽ kết thúc.
Nhưng khi Thanh Tĩnh Quân rút Duyên Quân ra khỏi cơ thể hắn ta, chuẩn bị ra tay thì người trước mặt nhíu mày, biểu cảm đau đớn, kêu rên lăn lộn một lúc, cơ thể dần thu nhỏ lại, tay áo loang lổ máu cũng dần trở nên rộng rãi.
Nhạc Vô Trần đột nhiên rút kiếm lại.
Chuyện này không phải do Tạp La cố ý làm, chỉ vì Nguyên anh trong cơ thể bị thương nặng, để tự vệ nên nó tự co lại, từ đó dẫn đến cơ thể bị thu nhỏ.
Giống như năm đó Cửu Chi Đăng ép Từ Hành Chi, khiến cơ thể cậu trở lại lúc năm tuổi.
Người đàn ông cao chừng tám thước nhanh chóng co rút về thời niên thiếu. Trông hắn ta cùng lắm mới được mười tuổi, vóc dáng bốn thước rưỡi, môi khô miệng rách, sắc mặt trắng bệch, khóe miệng có bọt máu chảy ra, nhìn thoáng qua trông nhỏ bé đáng thương cực kỳ.
Trái tim Nhạc Vô Trần bỗng đập mạnh một cái, giơ kiếm lên định đâm nhưng dù thế nào cũng không hạ kiếm xuống cứa đứt yết hầu quá mức mỏng manh kia được.
Phong Lăng Sơn có một quy định riêng trong môn phái, trên kiếm tuyệt đối không được nhuốm máu phái nữ và trẻ con, nhưng ngoài ra còn một quy định thép nữa là “diệt cỏ tận gốc”.
Thanh Tĩnh Quân cũng không biết khi một đứa trẻ và kẻ cực kỳ ác hòa thành một thì y phải tuân thủ quy định trước hay quy định sau.
Nhìn bé trai co rúm chân tay trước mặt, Nhạc Vô Trần do dự chốc lát, cuối cùng đưa ra quyết định.
Y ngồi xổm xuống, chặn mấy mạch máu lớn trên người Tạp La, ngưng tụ linh khí quanh người, chui vào cơ thể hắn ta, tẩy rửa sạch sẽ ma mạch trong cơ thể hắn ta.
Tạp La đang choáng váng bỗng run rẩy dữ dội, phát ra tiếng rên nghẹn ngào vụn vặt như động vật nhỏ, vì cực kỳ đau nên nước mắt tuôn trào cuồn cuộn, rửa gò má dính bùn của hắn ta thành vẻ loang lổ.
Quá trình tẩy sạch diễn ra trong khoảng hơn nửa canh giờ, tới khi gà sắp gáy sáng, Thanh Tĩnh Quân mới rút tay khỏi lồng ngực co giật run rẩy của hắn ta.
Y quyết định không giết hắn ta.
Hôm nay Tạp La thất bại thảm hại, mất hết tu vi, linh mạch bị hủy, ma mạch cũng bị y tẩy rửa một lượt, không thể tu luyện bất cứ công pháp ma đạo nào nữa, Nguyên anh trong cơ thể mất môi trường để giúp đó vận hành, từ nay về sau không thể làm việc ác được nữa.
Vậy thì để hắn ta nằm đây vậy. Chờ ma đạo tìm được hắn ta sẽ đưa hắn ta về tổng đàn nuôi dưỡng.
Thanh Tĩnh Quân dùng tay trái gài lưỡi kiếm đẫm máu vào trong vỏ kiếm, đi được mấy bước, quay đầu lại nhìn Tạp La vùi mình trong đống quần áo mà chau mày rên rỉ, y cúi đầu hơi phẩy bùn bẩn bắn lên vạt áo, tung người cưỡi gió nhẹ nhàng bay đi.
Sau khi y đi được một khắc, một nhóm đệ tử ma đạo quần áo rách rưới lẩn vào trong núi Hoài Ninh như ma quỷ, Lục Vân Hạc dẫn đầu phất tay nói nhỏ: “Tản ra, nhất định phải đưa sư phụ về!”
Đệ tử ma đạo nghe lời chia nhau ra tìm kiếm.
Có một tên đệ tử mắt hình tam giác đứng bên cạnh Lục Vân Hạc, thấy trên trán gã có vệt máu chưa khô thì ân cần đưa khăn tay cho gã: “Sư huynh, lau qua đi.”
Lục Vân Hạc đang lo lắng, đẩy tay gã ta ra: “Cút. Mau đi tìm sư phụ đi.”
Hiển nhiên là tên mắt tam giác không hề sốt ruột, nhỏ giọng khuyên: “Sư huynh, vừa nãy ta nghe thấy có đệ tử bàn tán rằng họ nhìn thấy Nhạc Vô Trần ra khỏi núi Hoài Ninh, ngoại trừ cổ tay áo dính chút máu ra, chỗ nào cũng lành lặn…”
Lục Vân Hạc tái mặt, vung tay tát một phát vang dội, vả cho tên mắt tam giác lăn ra đất: “Ngươi dám nguyền rủa sư phụ thêm một chữ nào nữa, có tin một khắc sau ta cho ngươi chết khó coi không!”
Tên mắt tam giác che nửa bên mặt sưng phù, không bẻo mép nữa, đầu lưỡi liếm máu trào ra từ hàm răng lung lay, trong lòng không ngừng oán thán:
Thanh Tĩnh Quân khỏe mạnh đi ra là sự thật như ván đã đóng thuyền, tương ứng với điều đó, bây giờ Tạp La không chết thì cũng tàn phế.
Nếu hắn ta chết thì coi như xong chuyện, được cái thanh tịnh; nếu hắn ta không chết thì có chuyện hay để coi rồi.
Trong ma đạo, từ trước đến nay luôn coi trọng thắng làm vua thua làm giặc, thực lực là thứ cao nhất, không cần kẻ vô dụng. Huống hồ Tạp La ở ma đạo không phải là kẻ được lòng người.
Lúc Tạp La thải bổ tu luyện, không bao giờ tìm người phàm. Không phải hắn ta thương tiếc mạng người mà trong mắt hắn ta, người phàm và thịt heo chẳng khác gì nhau, chỉ có những đệ tử tu luyện đến trình độ nhất định rồi mới có tư cách để hắn ta dùng thải bổ.
Từ lúc sinh ra đã có thiên phú tu ma khiến hắn ta có vốn để kiêu căng, các đệ tử hay bị tính cách vui giận thất thường của hắn ta chơi đùa khổ không tả nổi. Nếu chọc giận hắn ta, ăn tim moi gan là khách sáo lắm rồi.
Nói trắng ra là Tạp La là tên độc ác mười phân vẹn mười, tiên đạo căm ghét hắn ta, ma đạo cũng căm ghét hắn ta, ngay cả tên mắt tam giác lúc trước cũng bị hắn ta hại, bị hắn ta đánh.
Tên mắt tam giác liếm vết thương trong miệng, vô cùng mong chờ có thể tìm thấy Tạp La bị tàn tật, gã ta sẽ đưa Tạp La về ma đạo, trong khoảng thời gian ngắn Nhập Tái và Lục Vân Hạc có thể sẽ che chở hắn ta nhưng một kẻ yếu đuối vô dụng thì có thể nhận được đồng cảm bao lâu chứ?
Dần dà Tạp La sẽ bị người ta quên khuấy luôn, đến lúc đó, chỉ có người muốn “hầu hạ” hắn ta thôi.
Đi thêm một lúc nữa, một tên đệ tử ma đạo đi vào rừng tùng bỗng la lên: “Lục Vân Hạc sư huynh, ở đây!”
Lục Vân Hạc chạy về chỗ đó, đúng lúc nhìn thấy đệ tử kia dùng mũi kiếm nhấc một mảnh vải rách trong đống lá tùng lên, miếng vải dính một mảng máu to, chất vải mềm mại quý giá, đúng là mảnh vải được cắt ra từ áo bào Tạp La mặc trong ngày hôm nay, trên đất có vệt máu tươi, ngoằn ngoèo kéo về phía bên kia cánh rừng.
Mắt Lục Vân Hạc đỏ au: “Mau đi tìm! Sư phụ bị thương, chắc sẽ không đi xa đâu!”
Đệ tử bên dưới tràn ngập ác ý hăng hái hưởng ứng đáp: “Vâng!”
Trên một mảnh đất trống cách rừng tùng không xa, một thiếu niên thân hình gầy yếu run rẩy bò lên phía trước.
Tay chân hắn ta bị quấn trong tà áo tím quá rộng rãi, vì thế động tác có vẻ vụng về lề mề, rất giống con thằn lằn lần đầu tiên bị đứt đuôi.
Ngón tay hắn ta bị đá mài rách, mười đầu ngón tay chảy máu ròng ròng nhưng hắn ta vẫn vật lộn uốn éo, bò lên vách đá đằng trước.
Trong lúc hắn ta vùng vẫy giành lấy sự sống, bỗng có một đôi giày màu trắng thêu hoa văn hình mây lặng lẽ xuất hiện bên khóe mắt hắn ta.
Thiếu niên thở dốc mấy hơi, ngẩng mặt lên.
Trong ánh bình minh rực rỡ, một bóng người đứng thẳng sạch sẽ không vương hạt bụi, quanh người y được áo trắng như sương mù bao bọc, chỉ có tay áo phải dính máu đỏ tươi.
Thiếu niên sững người, thay đổi phương hướng, bò về phía người đó.
Nhạc Vô Trần không hề di chuyển, chỉ lẳng lặng nhìn hắn ta.
Y đi được nửa đường rồi quay lại.
Y thừa nhận, lúc phế bỏ linh lực của Tạp La, y không hề suy xét toàn diện.
Y không phải người trong ma đạo, không biết rất nhiều chuyện trong ma đạo, nếu trong ma đạo có linh dược bảo vật gì có thể khôi phục linh mạch bị y tẩy rửa của hắn ta, y lại để mặc Tạp La được ma đạo nhặt về, chẳng phải thả hổ về rừng sao?
Trong lúc y ngẫm nghĩ nên xử lý hắn ta thế nào cho thỏa đáng, thiếu niên đã bò đến bên chân y, túm lấy góc áo y, nước mắt đầm đìa nghẹn ngào nói: “Ca ca ơi, cứu ta với… Ta đau quá.”
Nhạc Vô Trần sầm mặt.
Y không ngờ lại xuất hiện biến cố này.
Có lẽ vì mất hết công lực ma đạo, màu xanh xám trong mắt thiếu niên đã biến mất hết, đôi mắt trắng đen rõ ràng nước mắt rưng rưng lấp lánh, khàn giọng cầu xin: “Ca ca ơi…”
Nhạc Vô Trần cúi đầu xuống, hỏi: “Ngươi có nhớ ta là ai không?”
Thiếu niên ngây người nhìn y một lúc rồi lắc đầu, nhưng bàn tay túm góc áo y càng siết chặt hơn, vò tấm vải lụa nhăn nhúm lại hết.
Nhạc Vô Trần cúi đầu lặng lẽ nhìn hắn ta chằm chằm, không biết đang nghĩ gì.
Trông có vẻ thiếu niên đã cạn kiệt sức lực, rủ đầu xuống, mất ý thức.
Tiếng bước chân của đệ tử ma đạo trong rừng dần truyền tới. Tên mắt tam giác là người đầu tiên xông đến mảnh đất trống ngoài rừng nhưng hình ảnh mà gã ta ngập tràn mong chờ lại chẳng xuất hiện.
Vết máu đỏ thẫm kéo dài ra khỏi rùng tùng, biến mất khi còn cách vách núi hơn mười thước.
Tên mắt tam giác không cam lòng xông tới bên vách núi, giương mắt nhìn xung quanh nhưng chỉ thấy đá hình dạng kỳ quái lởm chởm, làm gì có bóng người nào?
Trước Tiểu Thanh Quan, đệ tử bốn môn phái toàn thắng vui mừng quét dọn chiến trường, thi thể đệ tử bị ma đạo chém chết xếp ở trước quan, chờ làm phép siêu độ linh hồn, giải nghiệp chướng cho họ rồi an táng tại chỗ luôn.
Quảng Phủ Quân ở trước cổng quan sốt ruột lo lắng, đi qua đi lại không ngừng, mãi đến tận khi nhìn thấy bóng người trắng tuyết lướt gió ở phía xa, hắn mới thở phào nhẹ nhõm, tự mình đạp kiếm đi đón.
Hắn đang định hỏi tình hình bên phía Nhạc Vô Trần thế nào thì thấy một đứa trẻ máu me đầm đìa nằm sấp trên lưng y.
Quảng Phủ Quân ngạc nhiên: “Đứa bé này là ai thế?”
Thanh Tĩnh Quân nói thẳng cho hắn biết: “Tạp La.”
Quảng Phủ Quân nhất thời tưởng mình nghe nhầm, tới khi lấy lại tinh thần thì lại nghi ngờ có phải Thanh Tĩnh Quân đang chọc mình không.
Hắn đi ra sau lưng Thanh Tĩnh Quân, mở mắt đứa trẻ đang hôn mê ra, nhìn thấy đôi mắt đen như mực thì thở phào: “Sư huynh, không nên nói giỡn như thế. Tay phải huynh bị thương sao? Giao đứa trẻ này cho đệ tử khác đi, mau chóng về quan, đệ băng bó cho huynh.”
Thanh Tĩnh Quân khăng khăng nói: “Đệ nhìn kỹ mặt hắn đi.”
Quảng Phủ Quân đơ mặt, cúi đầu kiểm tra kỹ lưỡng lần nữa.
Nhưng trước kia Quảng Phủ Quân chưa bao giờ nhìn kỹ Tạp La cả, bây giờ cố gắng nhìn chằm chằm hắn ta cũng chẳng nhìn ra được gì, chỉ thấy thiếu niên này hơi đen, ngũ quan thanh tú, trên người không có tà khí, không giống người trong ma đạo.
Mãi đến tận khi Thanh Tĩnh Quân kể lại chuyện trên núi Hoài Ninh cho Quảng Phủ Quân nghe, Quảng Phủ Quân mới nhíu mày: “Sư huynh, huynh cảm thấy hắn mất trí nhớ thật hay giả vờ lừa gạt hòng giữ mạng?”
Thanh Tĩnh Quân nói: “Ta cảm thấy hắn đang lừa ta.”
Quảng Phủ Quân yên tâm được một chút: May quá, sư huynh vẫn còn tỉnh táo, không bị lời chót lưỡi đầu môi của tên ma đạo này lừa.
Hắn hỏi tiếp: “Thế sư huynh định xử lý hắn thế nào?”
Thanh Tĩnh Quân đáp: “Ta định đưa hắn về Phong Lăng.”
Quảng Phủ Quân: “…”
Hắn nhận ra từ lúc sư huynh thức dậy từ giấc mơ đêm đó, hắn không đoán nổi suy nghĩ của y nữa.
Thanh Tĩnh Quân giải thích: “Thả hắn về ma đạo thì ta sợ thả hổ về rừng.”
“Vậy thì giết hắn!”
Thấy Thanh Tĩnh Quân im lặng không nói, trong mắt Quảng Phủ Quân nổi lên vẻ sốt sắng: “Sư huynh, mang lòng dạ đàn bà vào lúc này là không được đâu! Nhổ cỏ tận gốc mới là điều quan trọng nhất!”
“Ta không có ý đó.” Thanh Tĩnh Quân nhẹ nhàng bổ sung: “Ý ta là giết hắn thì hời cho hắn quá.”
Quảng Phủ Quân: “…”
“Kinh mạch ma đạo của hắn đã bị ta lọc sạch rồi, chắc chắn sẽ không quay về ma đạo được nữa.” Thanh Tĩnh Quân chậm rãi thong dong: “Dẫn về Phong Lăng, coi như giảm lỏng hắn bên cạnh, có thể theo dõi mọi lúc. Nếu hắn vẫn định làm loạn thì nghe theo sư đệ, diệt trừ hắn; nếu hắn biết thân biết phận, định cải tà quy chính, một lòng hướng đạo, qua một khoảng thời gian, có lẽ hắn sẽ còn tác dụng khác.”
Quảng Phủ Quân tò mò: “Tác dụng gì?”
Thanh Tĩnh Quân khẽ cười: “Nói chung là tốt cho Hành Chi.”
Quảng Phủ Quân càng khó hiểu hơn, không biết mạng của Tạp La liên quan gì tới Từ Hành Chi.
Nhưng may mà con hổ này bị nhổ răng cắt móng rồi, chỉ còn lại đầu lưỡi mềm mại, còn biến thành con hổ con, Quảng Phủ Quân nghĩ tới nghĩ lui, cảm thấy mình chẳng cần sợ hắn ta.
Tạp La hôn mê bất tỉnh không hề hay biết số phận của mình đã được phán quyết.
Đến khi hắn ta tỉnh lại, bản thân nằm trên giường trong một gian phòng thiền, da thịt bị đá mài rách trên người đã được băng bó cẩn thận, cả người bị trói thành cái bánh chưng gạo trắng.
Có lẽ vì trẻ con da thịt mềm mại mà hốc mắt nông, Tạp La cử động một xíu thôi đã thấy đau nhức toàn thân, nước mắt tuôn rơi ào ào.
Tạp La vừa mất kiểm soát rơi lệ vừa nghiến răng nghiến lợi.
Đương nhiên là hắn ta không mất trí nhớ. Tất cả những việc xảy ra trong rừng tùng không ngừng lặp lại trước mắt hắn ta, nhìn thấy một cách rõ ràng. Hắn ta tin rằng đến tận cuối đời hắn ta cũng không thể quên nỗi nhục nhã này.
Nỗi đau khi linh lực bị đánh tan lớn hơn nhiều so với nỗi đau thể xác.
Hắn ta không thể quay về ma đạo là điều chắc chắn rồi.
Nếu không phải vì biết rõ mình có bao nhiêu kẻ thù trong ma đạo, hắn ta sẽ không vật lộn chạy trốn sau khi tỉnh lại, dù nhảy xuống vực cũng không muốn rơi vào tay đám người ma đạo.
Nếu Nhạc Vô Trần không quay lại, e là bây giờ hắn ta đã chết dưới vách núi rồi.
Khi nhìn thấy Nhạc Vô Trần, dục vọng muốn sống sót khiến Tạp La ném bỏ tôn nghiêm, bất chấp bò về phía y, thậm chí trong lúc mê man còn có mấy phần cảm kích và mừng rỡ hèn hạ.
Lúc này tỉnh lại, hắn ta chỉ cảm thấy xấu hổ muôn phần, hận không thể bóp chết Nhạc Vô Trần.
Nhưng mà hắn ta biết rõ, dựa vào thân thể người trần mắt thịt của mình lúc này, đến vạt áo của y hắn ta còn chẳng chạm vào nổi.
Tạp La nghĩ đến tu vi nhiều năm của mình bị hủy trong chốc lát, tức giận và nôn nóng cùng nhau ập tới, lửa giận công tâm, chỉ muốn đập giường cho hả giận.
Đúng lúc này, cửa phòng thiền bị đẩy ra, Nhạc Vô Trần cầm một bức thư trên tay trái bước vào, chạm phải đôi mắt đen láy rưng rưng nước mắt của đứa nhỏ trên giường, y thoáng sững sờ rồi dịu giọng nói: “Tỉnh rồi đó à?”
Tạp La nuốt phẫn uất ngập tràn xuống, giả bộ ngoan ngoãn gật đầu.
Nhạc Vô Trần đi lên trước, lấy một cái khăn tay trong ngực ra, dịu dàng ấn mấy lần ở khóe mắt hắn ta: “Đừng khóc, nước mắt dính vào vết thương sẽ không tốt.”
Trên cơ thể người này có hương rượu mát lạnh tự nhiên, hơn nữa gương mặt này khiến kẻ xưa giờ luôn nghiện rượu như Tạp La muốn cắn một phát thật mạnh cho hả giận.
Nhạc Vô Trần tiếp tục hỏi hắn ta: “Ngươi tên là gì? Tại sao lại ở trong núi rồi bị thương nặng?”
Tạp La giả vờ chăm chú tốn công ngẫm nghĩ một lúc rồi đau buồn lắc đầu: “Ta không nhớ.”
“Chuyện cũ đều là phiền toái, quên hết cũng tốt.” Nhạc Vô Trần cực kỳ rộng lượng: “Kể từ hôm nay, ngươi gia nhập vào Phong Lăng Sơn của ta, làm nhị đồ đệ của ta. Ta ban cho ngươi một cái tên, La Thập Tam, ngươi thấy thế nào?”
*Trong tên Tạp La thì tạp có nghĩa là ba mươi, mà số đếm ba mươi trong tiếng Trung có Hán Việt là tam thập; tên mới như đọc ngược lại kiểu Tạp La – Tam Thập La –> La Thập Tam.
Tạp La: “…”
Thuở sinh thời hắn ta chưa từng nghĩ cái tên quê mùa ấy lại rơi trúng đầu mình, răng trong miệng suýt thì bị cắn vỡ.
Nhưng nghe Nhạc Vô Trần chấp nhận cho mình vào Phong Lăng Sơn, trong lòng Tạp La lại hơi dao động.
Quả nhiên, đám đạo sĩ thối đều có lòng dạ đàn bà vô dụng.
Nhạc Vô Trần không định nhổ cỏ tận gốc, đương nhiên Tạp La không cần tự tìm khó chịu cho bản thân, trước tiên có một chốn đặt chân cái đã rồi chậm rãi bày mưu tính kế.
Vào Phong Lăng, không lo không có cơ hội giết tên ngụy quân tử này.
Nghĩ đến đây, hắn ta nhếch miệng cười, trong mắt đong đầy ánh sáng thuần khiết lương thiện, ngoan ngoãn nói: “Cảm ơn sư phụ thu nhận.”
Tên họ Nhạc kia, ngày tháng còn dài, ngươi chờ đấy cho ta.
Nhạc Vô Trần gật đầu, đôi mắt trong trẻo cụp xuống, mượn bóng mờ của hàng lông mi dài che khuất, trông như có đôi phần buồn thương, lại chứa cả mấy phần tự giễu.
Đã chết nhiều năm, y không còn là Nhạc Vô Trần lúc trước từ lâu rồi.
Nhưng y thà tỉnh táo mà sống chứ không muốn chết trong mơ hồ. Kiếp này, y muốn nuôi dưỡng Hành Chi sống thật tốt.
Lần này trở về, y phải bắt đầu tích góp sính lễ cho Hành Chi thôi.
Nghĩ tới đây, Nhạc Vô Trần hơi vui vẻ lên, nhếch môi mỉm cười.
Tạp La đang mất kiên nhẫn đảo mắt lung tung, mưu toan điều động Nguyên anh đã suy kiệt trong cơ thể, đúng lúc đụng phải ý cười bên miệng Nhạc Vô Trần.
Hắn ta hơi ngớ người, tưởng rằng y đang cười với mình.
Nói chứ cũng đẹp lắm đấy.
Nhưng sự thường thức ấy bị nhấn chìm bởi xúc động muốn bóp chết y dạt dào trong lòng, Tạp La thầm cười nhạo Nhạc Vô Trần ngu ngốc, cũng tiếp tục tính toán mình nên ra tay thế nào.
Giống như trong ký ức ở kiếp trước của Nhạc Vô Trần, Nhập Tái thất bại ê chề, Tạp La chẳng còn hài cốt, ma đạo kiêu căng bỗng xin đầu hàng, ít ngày nữa sẽ gửi thư xin hàng đến.
Để bày tỏ lòng chân thành muốn đầu hàng, Nhập Tái chủ động muốn đưa con trai út tới Phong Lăng làm học trò.
Lúc nhận được tin tức này, Nhạc Vô Trần đang ở trên đường về Phong Lăng từ núi Bảo An, đọc thư mà sứ giả ma đạo gửi tới, y nhét thư vào trong tay áo, đáp rằng muốn suy nghĩ đã.
Vai phải của Tạp La bị Nhạc Vô Trần dùng một chiêu kiếm đâm thủng, e là sau này sử dụng sẽ không linh hoạt cho lắm, hai chân cũng bị thương nặng trong lúc lê lết bò trườn.
Nếu không tiện đi lại thì Nhạc Vô Trần bèn canh giữ ngày đêm bên cạnh hắn ta, lúc trở về núi cũng cõng hắn ta trên lưng.
Nhạc Vô Trần không yên tâm giao hắn ta cho người khác chăm sóc.
Tạp La cũng nghe được tin ma đạo cầu hòa, thầm hận huynh trưởng mình vô dụng, cũng mơ hồ mong đợi hắn ta có thể đưa một cánh tay đắc lực đến, hỗ trợ sự nghiệp giết thầy của mình.
Nhưng bây giờ hắn ta phải giả bộ làm người hiền lành, khiến Nhạc Vô Trần mất cảnh giác, để y tin tưởng mình từng chút một.
Vì thế lúc nhìn thấy mạch máu nhỏ nhắn ở cổ y gần trong gang tấc, Tạp La cố kiềm chế sự thôi thúc muốn cắn y một phát, ôm chặt lấy cổ y, vì cơ thể mất máu quá nhiều nên cọ trên người y còn thấy khá ấm áp.
Từ Hành Chi dẫn các đệ tử ra cổng môn phái chờ sư phụ về từ lâu, nhìn thấy Nhạc Vô Trần cõng một đứa trẻ đen xinh xắn sau lưng thì khó nén nổi tò mò: “Sư phụ, ai thế?”
Thanh Tĩnh Quân đáp: “Đứa trẻ ta nhặt được, nhị sư đệ của con.”
Từ Hành Chi bỗng thấy hứng thú: “Nhị sư đệ á?”
Bây giờ tự dưng Tạp La thấp hơn một lớp thế hệ so với Thanh Tĩnh Quân, cơ thể trẻ con khó khôi phục được đã tức lắm rồi, bây giờ còn phải gọi một tên nhóc thối là sư huynh, nhất thời Tạp La nổi lên cả ý muốn giết người.
Nhưng vì muốn sau này có chỗ đặt chân trên núi, Tạp La vẫn cố ép sự bất mãn xuống, dịu giọng gọi: “Sư huynh.”
Không dễ dàng gì Từ Hành Chi mới có một sư đệ ruột, trong lòng rất vui vẻ, trêu đùa: “Ơi. Gọi thêm tiếng nữa đi.”
Tạp La: “…” Hắn nghẹo đầu đi, nằm nhoài trên lưng Nhạc Vô Trần, nổi cả gân xanh, giả bộ mình đã chết.
Quảng Phủ Quân đi tới từ phía sau Nhạc Vô Trần, để ý tới động tác của Tạp La, chỉ sợ hắn ta giở trò.
Từ trước đến nay Từ Hành Chi luôn vừa kính trọng vừa sợ hãi Quảng Phủ Quân, nhìn thấy hắn thì ưỡn thẳng sống lưng thêm mấy phần: “Sư thúc, ngài trừ ma vất vả rồi.”
Quảng Phủ Quân nghe vậy thì hơi nhíu mày.
Trước kia, hắn chỉ sợ Từ Hành Chi sở hữu bảo khí có năng lực to lớn, nếu không rèn giũa tính cách nhanh nhảu nghịch ngợm của cậu thì một khi cậu bước lên con đường tà đạo, hậu quả sẽ khó mà lường được; nhưng từ khi biết sách Thế Giới chỉ là bản khuyết thiếu, dù Từ Hành Chi biết được việc này cũng không thể gây hại cho bốn môn phái, lần đầu tiên hắn cảm thấy người trước mặt ưa nhìn hơn hẳn, giọng điệu cũng dịu xuống không ít: “Ừ. Ngươi trông giữ núi cũng vất vả rồi.”
Từ Hành Chi được cưng mà vừa mừng vừa lo, hít sâu một hơi.
Quảng Phủ Quân thấy cậu phản ứng dữ dội như thế thì không không chế biểu cảm nổi nữa, mặt lại sầm xuống, nói với Tạp La nằm trên lưng Nhạc Vô Trần: “La Thập Tam, xuống đi. Sau khi vào cổng thì ngươi phải tự đi đoạn đường còn lại. Để sư huynh cõng ngươi thì còn ra thể thống gì nữa.”
Tạp La thầm chửi một tiếng trong lòng, Nhạc Vô Trần còn chưa đuổi ta, ngươi là cái thá gì chứ.
Nhưng sư thúc ra lệnh, hắn ta không thể không nghe theo, đành phải lề mề tụt xuống khỏi người Nhạc Vô Trần, khập khiễng được Quảng Phủ Quân dẫn tới điện Thanh Trúc.
Đưa mắt nhìn Tạp La rời đi, ánh sáng trong mắt Nhạc Vô Trần càng thêm hiền hòa, chủ động nắm tay Từ Hành Chi, trong ánh mắt hâm mộ của các đệ tử, dắt cậu đi vào cổng.
Được sư phụ cưng chiều như thế trước mặt mọi người, Từ Hành Chi hơi ngứa ngáy nhưng sau đó trong lòng lại thấy ấm áp.
Cậu ngẩn ngơ nghĩ, nếu phụ thân còn trên đời, liệu người có đối xử với mình như sư phụ không?
Hai người sóng vai đi vào điện Thanh Trúc, Nhạc Vô Trần nói với Từ Hành Chi: “Hành Chi này, ma đạo muốn đưa con út tới đây làm học trò của ta.”
“Ma đạo?” Mặc dù Từ Hành Chi không biết vì sao sư phụ lại phải dùng giọng điệu thương lượng ấy để nói với mình nhưng cậu vẫn nghe lời hỏi sư phụ: “Nói là học trò chứ thực tế là con tin thôi.”
“Hành Chi muốn hắn tới không?”
“Hỏi con ấy ạ?” Từ Hành Chi ngạc nhiên sờ cằm: “Nếu bị đưa tới đây thì chắc hẳn không được yêu chiều, chắc chắn sống trong ma đạo cũng thấp thỏm lo sợ… Xem tính nết đứa trẻ ấy thế nào, nếu tính cách tốt thì cứ đưa đến đây, đỡ phải bị ức hiếp ở ma đạo, con cũng có thêm sư đệ…”
Nói đến đây, Từ Hành Chi lại nhớ tới mình vừa có thêm sư đệ da đen, nếu có thêm một sư đệ ma đạo nữa, chẳng phải càng tốt hơn sao?
Cuộc đời cậu sợ nhất là không có ai làm bạn, trong điện đệ tử đứng đầu cũng tẻ nhạt, tự dưng có thêm hai sư đệ nội môn chơi chung, cậu bỗng có cảm giác thỏa mãn như được con ruột vây quanh đầu gối.
Nhạc Vô Trần dịu giọng nói: “Được, ta nghe theo Hành Chi, đón hắn đến làm bạn với con.”
Từ Hành Chi cười hì hì: “Thôi thôi thôi sư phụ ơi, nếu bị sư thúc nghe được chắc chắn ngài ấy lại muốn phạt con đấy.”
Nhạc Vô Trần nhẹ nhàng nói: “Sau này hắn sẽ không tùy tiện phạt con nữa.”
Đương nhiên Từ Hành Chi cho rằng sư phụ đang vỗ về mình, cười khì khì, coi như gió thoảng ngoài tai.
Đi được thêm mấy bước, Nhạc Vô Trần lại lên tiếng: “Hành Chi, gần đây ta vẫn muốn nhận một đồ đệ nữa.”
Từ Hành Chi không ngờ trong một ngày mình lại có thêm sư đệ thứ ba nữa, không khỏi vui mừng nói: “Sư phụ, dạo này người bị nghiện nhận đồ đệ đó à?”
Nhạc Vô Trần khẽ cười: “Hắn là đệ tử ngoại môn, nghe nói rất chăm chỉ nỗ lực, đáng để rèn giũa, tên là Từ Bình Sinh. Không biết Hành Chi có từng nghe về hắn không?”
Đệ tử mới La Thập Tam một bước bay lên trời, từ một kẻ vô danh tiểu tốt lắc mình biến thành đệ tử nội môn của Nhạc Vô Trần, làm cho đệ tử trong Phong Lăng bàn tán mấy ngày trời.
Bọn họ nghi ngờ liệu có phải Từ Hành Chi thất sủng rồi hay không.
Dù sao năm đó Từ Hành Chi vào môn phái nửa năm mới được làm đồ đệ đứng đầu. Mà dù là Từ sư huynh, y cũng không được hưởng đãi ngộ ngủ cùng điện với sư phụ như La Thập Tam.
Nghĩ đến đây, ánh mắt mọi người nhìn Từ Hành Chi có thêm đôi phần đồng cảm.
Nhưng Từ Hành Chi chẳng hề nhận ra điều ấy, vui vẻ chuyển chăn đệm và đồ dùng cá nhân ra khỏi điện đệ tử, chuyển đến gian điện mới chỉ cách điện của cậu một bức tường.
Nhạc Vô Trần sắp xếp Tạp La ở điện của mình, nhờ Quảng Phủ Quân ở lại trong điện giám sát hắn ta đọc sách, xử lý công việc trong núi xong thì giấu bầu rượu ngọc trong lòng đi tìm Từ Hành Chi nhưng nhìn thấy cửa điện của Từ Hành Chi mở rộng, trong điện không có ai mà có giọng nói truyền ra từ gian bên cạnh.
Nhạc Vô Trần ôm bầu rượu thong thả đi tới sát chân tường, nghiêng tai lắng nghe.
Từ Hành Chi cởi áo ngoài, chỉ mặc áo trong, quỳ trên giường tay chân lanh lẹ trải phẳng chăn đệm cho Từ Bình Sinh.
Chăn vừa được phơi nắng nên bồng bềnh mềm mại, tỏa ra hương thơm ấm áp nhàn nhạt, nhanh chóng làm cho căn phòng bỏ trống đã lâu này có thêm đôi phần hương vị của một ngôi nhà.
Từ Bình Sinh đứng ở bên giường, khó chịu nói: “Ngươi đừng làm việc lung tung. Ta có tay có chân, không cần ngươi giúp.”
Từ Hành Chi nhảy xuống khỏi giường, trán đổ một lớp mồ hôi mỏng, cậu dùng hai tay nâng rổ tre đựng quần áo đồ đạc linh tinh, không còn tay nào dư để lau mồ hôi, bèn dùng bả vai vội vàng quẹt cho xong: “Không sao. Làm việc cho huynh trưởng, đệ vui lắm.”
Từ Bình Sinh mất tự nhiên cực kỳ.
Với Từ Bình Sinh mà nói, trở thành đồ đệ của Thanh Tĩnh Quân là chuyện tốt mà có nằm mơ cậu ta cũng không ngờ được. Sau khi nhận được thông báo, đầu óc cậu ta choáng váng từng cơn, tự hỏi mình có chỗ nào hơn người, có tư cách gì mà lọt vào mắt xanh của Thanh Tĩnh Quân.
Nghĩ tới nghĩ lui, cậu ta bắt đầu nghi ngờ Từ Hành Chi thổi gió gì với Thanh Tĩnh Quân.
Nhưng thấy Từ Hành Chi còn bất ngờ hơn mình, Từ Bình Sinh càng thấy khó hiểu hơn, không nhịn nổi hỏi dò cậu: “Vì sao Thanh Tĩnh Quân lại nhận ta làm đồ đệ, ngươi có biết vì lý do gì không?”
Từ Hành Chi cầm chổi lông gà, quét bụi với khí thế ngất trời, vừa hùa theo trả lời: “Đệ cũng không biết. Nhưng từ trước đến nay huynh trưởng luôn chăm chỉ hơn các đệ tử khác gấp trăm lần, có lẽ vào một lần nào đó sư phụ đi nhìn các đệ tử luyện công rồi để ý sự nỗ lực của huynh á.”
Đây là câu nói từ tận đáy lòng, Từ Bình Sinh hơi không chịu nổi cậu khen thẳng thắn như thế, mặt nóng bừng lên.
Trước kia, cậu ta cho rằng giữa mình và Từ Hành Chi có một cái lạch trời khó có thể lấp được, hai người không phải người chung một thế giới từ lâu rồi, bây giờ đột nhiên lạch trời được xóa bỏ, Từ Bình Sinh cảm thấy nếu cứ trừng mắt lạnh lùng với Từ Hành Chi như trước thì không có khí phách; nhưng nếu đột ngột hiền hòa với cậu thì không ổn cho lắm.
Trong lúc cậu ta tự phân cao thấp với bản thân, Từ Hành Chi đã nhanh nhẹn lau bàn ghế cửa sổ ghế dài xong, vươn tay duỗi eo, ngồi xuống cạnh giường, đôi chân dài buông xuống bên mép giường cao, mắt cười rung động lòng người, lên tiếng: “Huynh trưởng ơi, nửa đêm đệ không ngủ được, đệ có thể tới tìm huynh nói chuyện không?”
Từ Bình Sinh cứng rắn nói: “Trong núi có quy định, một khi đi ngủ thì không được tùy tiện ra vào nơi ở của người khác.”
Lời từ chối vừa dứt thì cậu ta hối hận.
Ngày trước, Từ Hành Chi lấy lòng cậu ta, cậu ta luôn chống cự từ chối, lần nào hai huynh đệ cũng cãi nhau chia tay trong không vui, bây giờ có thể đứng ngang hàng nói chuyện, cậu ta vẫn chưa sửa được cái tật nói ra lời khiến ta ghét này.
May mà đệ đệ cậu ta có cái mặt dày đao kiếm đâm không thủng, cậu cười hì hì dùng khuỷu tay chống vào thành giường, chống cằm nói: “Không ra vào bằng cửa, đệ có thể trèo tường.”
Từ Bình Sinh nghiêng đầu: “Tùy ngươi. Trèo cao mà bị ngã thì ta cũng mặc kệ.”
Thấy thái độ huynh trưởng dịu xuống, Từ Hành Chi vui mừng không thôi, nghỉ một lúc rồi lại tiếp tục nhiệt tình dọn dẹp đồ đạc cho Từ Bình Sinh.
Có lẽ để thể hiện sự coi trọng, Thanh Tĩnh Quân tặng cho Từ Bình Sinh không ít đồ quý giá, mỗi một thứ đều là linh vật quý báu mà lúc trước cậu ta không dám mơ tưởng.
Ngay cả Từ Hành Chi cũng thỉnh thoảng kêu lên thán phục trong lúc dọn dẹp: “Sư phụ cho huynh nhiều linh thạch thượng hạng thế. Người chưa từng cho đệ nhiều thế này bao giờ!”
Từ Bình Sinh dọn dẹp đồ trong phòng, im lặng không nói nhưng lại vừa mừng vừa lo vì được thương.
Thanh Tĩnh Quân ưu ái mình như thế, bắt đầu từ hôm nay, cậu ta càng phải cố gắng gấp bội, không phụ sự mong đợi của sư phụ đối với mình.
Rất nhanh sau đó, khóe mắt cậu ta lại nhìn sang thiếu niên bận rộn không ngừng ở phía sau.
Nếu có một ngày mình có thể mạnh mẽ như Từ Hành Chi, người ca ca này có thể ưỡn thẳng lưng lên dạy dỗ cậu ra trò, dù tên nhóc thối này gây ra bao nhiêu tai họa, bao nhiêu phiền phức, cậu ta đều có thể giải quyết, chứ không phải lần nào gặp khó khăn cũng căm phẫn vì mình không thể làm gì được.
Nghĩ đến đây, khóe môi trước giờ luôn cụp xuống của Từ Bình Sinh nhẹ nhàng cong lên.
Từ Hành Chi dọn dẹp gian điện mới của Từ Bình Sinh cơ bản đã đâu vào đấy xong mới đi về điện của mình.
Lúc cậu dạt dào vui sướng bước vào sân thì thấy bóng người như lan như ngọc đang ngồi trong sân của cậu.
Người kia xem xét kỹ mỗi một cảnh vật trong điện. Hành lang, song cửa, ngay cả chuông đồng rủ xuống dưới mái hiên y cũng vươn tay sờ từng cái một, biểu cảm thẫn thờ như đang nhớ thương gì đó.
Nghe tiếng bước chân ở đằng sau, người kia mới quay đầu lại, dịu dàng mỉm cười: “Hành Chi, về rồi đấy à?”
Từ Hành Chi tưởng Thanh Tĩnh Quân có chuyện gì đó nên tới tìm mình, đi tới đón: “Con xin lỗi sư phụ, vừa nãy con luôn ở sân bên cạnh giúp Từ… giúp sư đệ dọn dẹp đồ đạc. Người đợi bao lâu rồi?”
Nhạc Vô Trần chờ đợi trong bóng tối mười mấy năm hơi khựng người lại rồi nhỏ nhẹ đáp: “Không lâu lắm.”
Nói xong, y lấy một cái bình ngọc trong ngực ra: “Hành Chi, chúng ta uống rượu đi.”
“Bây giờ? Ban ngày ạ?”
“Ừ, ban ngày.” Thanh Tĩnh Quân hiền hòa nói: “Sư phụ muốn uống rượu với con.”
Nếu sư phụ chủ động mời thì đương nhiên Từ Hành Chi vui vẻ nghe theo.
Cậu muốn tìm cái bàn đá để thưởng thức rượu nhưng Nhạc Vô Trần lại kéo cậu ngồi xuống bậc thềm ở trước điện.
Hai người ngồi sóng vai với nhau ổn định xong Nhạc Vô Trần mới giải thích: “Như thế này thì chúng ta sẽ gần nhau hơn.”
Từ Hành Chi thấy ấm áp trong lòng, nhích gần vào Thanh Tĩnh Quân hơn.
Hai người tự rót đầy chén của mình, uống được mấy lượt, lúc này, Thanh Tĩnh Quân vẫn im lặng không nói gì, chỉ lo uống rượu, khóe miệng còn vương ý cười, hình như y đang dùng toàn bộ thể xác và tinh thần để hưởng thụ thú vui uống rượu cùng Từ Hành Chi.
Từ Hành Chi nhắc nhở y: “Sư phụ, uống gấp quá sẽ say đấy.”
Thanh Tĩnh Quân xua tay: “Say thì say, ta vui mà.”
Sư phụ vui vẻ, đương nhiên Từ Hành Chi không lý nào lại làm trái mong muốn của y, cậu vươn tay rót đầy một chén nữa cho y.
Thanh Tĩnh Quân đặt miệng chén lên môi, nhỏ giọng dò hỏi: “Đi dọn dẹp đồ đạc cho hắn, có mệt không?”
“Không mệt ạ.” Vừa nhắc tới Từ Bình Sinh, Từ Hành Chi thể hiện ra sự quấn quýt đơn thuần hiếm có: “Sư phụ, sao người lại muốn nhận Từ sư đệ làm đồ đệ thế?”
Thanh Tĩnh Quân đáp ngắn gọn: “Hắn là một đứa trẻ tốt.”
Cậu ta chỉ thiếu một chút chỉ dẫn thôi, không cần phải trả giá thê thảm như thế mới có thể trưởng thành.
“Sư phụ tốt với Từ sư đệ thật đấy.” Từ Hành Chi cười lên rồi nghĩ tới việc vừa nãy ở chỗ huynh trưởng nhìn thấy rất nhiều linh thạch thượng hạng, cố ý trêu đùa: “Nhưng không thể bất công quá, nếu không Hành Chi sẽ quậy lên đấy.”
Không ngờ Thanh Tĩnh Quân nghe vậy lại giơ tay xoa cổ Từ Hành Chi, dịu dàng ấn đầu cậu để cậu ngả vào vai mình: “Đó đều là vật ngoài thân không quan trọng, muốn bao nhiêu có bấy nhiêu. Hành Chi muốn cái gì, sư phụ sẽ cho con hết.”
Từ Hành Chi bất ngờ được ôm, thầm nghi ngờ tửu lượng của sư phụ quá tệ, mới uống mấy chén đã say rồi.
Thanh Tĩnh Quân vẫn tự nói: “Hành Chi muốn gì nào?”
Từ Hành Chi nghĩ ngợi, cười đáp lời y: “Vậy thì Hành Chi mong sao sư phụ một đời thuận lợi, bốn môn phái bình an vui vẻ… Con có một giai nhân xinh đẹp. Sư phụ có thể thực hiện được không?”
Thanh Tĩnh Quân cười: “Ừ, sư phụ nhớ rồi.”
“Vậy thì chúng ta hứa rồi đấy nhé.” Từ Hành Chi ngọ nguậy, muốn chui ra khỏi lòng sư phụ, Thanh Tĩnh Quân lại ôm cậu cực kỳ chặt, cứ như thứ trong lòng y là báu vật quý giá nhất, không ai muốn buông tay dễ dàng.
Từ Hành Chi bèn ngồi im.
Có lẽ vì sư phụ say thường hay làm mấy hành động hoang đường, bây giờ cậu được y dỗ dành như trẻ con cũng chẳng có gì lạ.
Hơn nữa, vùi trong lòng Thanh Tĩnh Quân rất ấm áp.
Thanh Tĩnh Quân cụp hàng mi dài xuống, che đầu Từ Hành Chi, nhỏ giọng đồng ý: “Ừ, hứa rồi.”
Trong lúc hai thầy trò uống rượu với nhau, bên ngoài lời đồn đãi tung bay đầy trời, còn phát triển theo hướng kỳ quái…
Bắt đầu từ đồ đệ đứng đầu với xuất thân là lưu manh đầu đường – Từ Hành Chi, Thanh Tĩnh Quân lại nhận một đứa nhóc da đen không rõ lai lịch làm đồ đệ thứ hai, lại nhặt một tên mặt nào cũng thường thường trong đám đệ tử ngoại môn làm đồ đệ thứ ba, sắp tới còn có con tin của ma đạo tới lấp chỗ trống của vị trí đệ tử thứ tư, điều này khó tránh khỏi việc có đệ tử oán thầm, rốt cuộc Thanh Tĩnh Quân dựa vào cái gì để nhận đệ tử vậy? Lai lịch? Tư chất? Thiên phú?
Nhìn tới nhìn lui, mọi người tổng kết ra điểm giống nhau của ba người này, quy hết về vẻ ngoài, chỉ có cái mặt đẹp ra thì không còn gì hết,
Chẳng lẽ Thanh Tĩnh Quân nhìn mặt mà nhận đồ đệ ư?
Khi đồ đệ thứ tư của y đến, suy đoán ấy lại được chứng thực.
Hôm đó cảnh xuân tươi đẹp, con tin của ma đạo dưới ánh nhìn chằm chằm của mọi người được dẫn vào cổng chính của Phong Lăng Sơn.
Cậu ta mặc bộ đồ màu trắng thuần, tượng trưng cho sự trống trơn, bản chất sạch sẽ.
Các đệ tử đứng thành hàng trên quảng trường phóng tầm mắt ra nhìn, sau khi thấy rõ vẻ ngoài của đứa trẻ ấy, không hẹn mà cùng nhau thầm ồ một tiếng.
Thấy con tin còn nhỏ tuổi mà đã có thể nhìn ra sau này lớn lên ắt sẽ ngọc thụ lâm phong, điều hiếm thấy hơn là cậu ta còn nhỏ đã có phong thái điềm tĩnh chín chắn, lúc bị ánh mắt của mọi người vây quanh không hề hoảng loạn sợ hãi, mỗi tội gầy quá, tay chân mảnh khảnh, xem ra được nuôi dưỡng không chu đáo.
Nhưng mà người bị ma đạo đưa đi làm con tin thì chắc hẳn không phải cục cưng gì, nhưng Nhập Tái đi vào môn phái với con tin đang đứng trước mặt cậu ta thì mặt bí xị.
Đương nhiên không phải vì Nhập Tái thương xót đứa con của thê thiếp mà từ khi ra đời tới nay hắn ta chẳng gặp được mấy lần.
Dù sao đưa con tin ra ngoài cũng là chuyện mất mặt, đương nhiên Nhập Tái muốn việc này càng kín tiếng càng tốt.
Lục Vân Hạc là đồ đệ cũ của Tạp La, vì được việc, thủ đoạn tàn nhẫn, là một kẻ ưu tú, Tạp Tứ lại không rõ sống chết nên Nhập Tái không lãng phí kẻ này, bây giờ gã đã được lôi kéo gia nhập phe cánh của Nhập Tái. Vốn dĩ Nhập Tái định để Lục Vân Hạc đưa người tới Phong Lăng là xong, không ngờ mấy ngày trước bọn họ nhận được thư do chính tay Thanh Tĩnh Quân viết.
Chỉ ba dòng chữ ngắn ngủi, Nhập Tái trợn mắt xem hơn một chén trà.
Lục Vân Hạc thấy vẻ mặt u ám của hắn ta, cảm thấy có điều không đúng: “Sư phụ, sao thế?”
Nhập Tái sầm mặt đưa tờ giấy mỏng manh ấy qua: “Nhạc Vô Trần muốn ta tự mình đưa người vào. Hắn muốn triệu tập bốn môn phái, làm lễ nhận đồ đệ thật long trọng!”
Lục Vân Hạc trợn tròn mắt, giận dữ xé tờ giấy thành mấy mảnh, căm hận nói: “Chuyện này đúng là khinh người quá đáng!”
Ma đạo thua bốn môn phái, thắng làm vua thua làm giặc, không còn gì để nói, áp giải con tin đến lấy đó để thể hiện lòng hữu hảo. Lục Vân Hạc cho rằng như thế đã cực kỳ nhượng bộ rồi, ai ngờ tên họ Nhạc này không biết điều, không chỉ muốn làm lễ nhận đồ đệ mà còn muốn giống trống khua chiêng, thế chẳng phải ngang nhiên giẫm thể diện của ma đạo dưới chân sao?
Nhưng bây giờ ma đạo tổn thất nặng nề, chẳng lẽ lại vì chuyện nhỏ như đưa con tin đi mà trở mặt lần nữa?
Nhập Tái ngồi trên sạp nghiến răng nghiến lợi thất thần một lúc lâu, giơ tay chỉ đống giấy vụn bị gió thổi tung vang tiếng rì rào: “Nhặt lên.”
Lục Vân Hạc ngây người: “…”
“Chuẩn bị bút mực, viết thư trả lời.”
Nhập Tái nhả mấy chữ ra khỏi kẽ răng: “Để Phong Lăng tự tổ chức buổi lễ thu nhận đồ đệ cũng được nhưng không cần làm ầm lên cho cả bốn môn phái đều biết!”
Sau khi nhận được câu trả lời với ngôn từ khẩn thiết của Nhập Tái, Nhạc Vô Trần không gây khó dễ nữa.
Y vốn không muốn Nhập Tái bị mất mặt trước toàn bộ đạo môn. Nếu ép dữ quá khiến hắn ta tức giận, thấy nhục nhã rồi nổi lên suy nghĩ làm loạn thì không ổn.
Sở dĩ Nhạc Vô Trần đưa ra yêu cầu muốn triệu tập đệ tử bốn môn phái, làm lễ nhận đồ đệ, chỉ vì đưa ra yêu cầu trên trời để được đáp lại vừa lòng thôi.
Mục đích thật sự của y là muốn cho Cửu Chi Đăng danh phận chính thống.
Kiếp trước, Cửu Chi Đăng đến trong im lặng, ngay cả bản thân Nhạc Vô Trần vào lúc đó cũng đã say bí tỉ, không hề để ý gì tới chuyện ma đạo đưa con tin đến.
Tới khi y tỉnh lại, trong núi đã có thêm một tiểu tu sĩ trầm tĩnh kiệm lời rồi.
Sau khi huyết thống ma đạo thức tỉnh, Cửu Chi Đăng cũng đi trong lặng lẽ, giống như một cục đá rơi vào hồ sâu, không đáng dấy lên chút xíu gợn sóng nào trong lòng người ta.
Mà lần này, Nhạc Vô Trần muốn tạo ra ít sóng gió, để người của ma đạo biết, người này vào cổng Phong Lăng Sơn của y, đi qua minh đường, ghi tên vào sổ, muốn ép cậu ta về thì cứ ở đấy mà nằm mơ.
Lúc này, trên đài cao, Nhạc Vô Trần mặc quần áo nhẹ nhàng sạch sẽ, đầu đội mũ hoa sen, thấy con tin đi tới trước đài rồi dừng lại, y liếc mắt ra hiệu cho Từ Hành Chi đang đứng bên cạnh.
Từ Hành Chi hiểu ý, bước nhanh đi xuống khỏi đài cao ở trước điện, đi tới trước mặt con tin nhỏ bé ấy.
Con tin biết ngoan ngoãn dễ bảo, vái chào theo lễ tiết: “Đệ tử ma đạo Cửu Chi Đăng bái kiến sư phụ, bái kiến các vị sư huynh…”
Từ Hành Chi để ý thấy đôi tay chắp lại với nhau của con tin đang run rẩy, không khiến người ta chú ý.
Dù cậu ta giả bộ thế nào, chung quy cũng chỉ là một đứa trẻ, lúc này bước vào một nơi xa lạ, trong lòng khó tránh khỏi hoảng sợ.
Thấy cậu ta căng thẳng, Từ Hành Chi cúi người xuống, an ủi nhỏ giọng cười nói: “Từ nay về sau phải giới thiệu môn phái của mình, phải nhớ ngươi là Phong Lăng Cửu Chi Đăng.”
Thiếu niên Cửu Chi Đăng nghe thấy giọng nói trong trẻo ấy thì chỉ cảm thấy như có gió mát chui vào tai, trái tim thắt lại, vô thức ngẩng đầu lên, một gương mặt quân tử như ngọc rơi vào trong đôi mắt cậu ta.
Trên đài cao, có Thanh Tĩnh Quân, có Quảng Phủ Quân, còn có Từ Bình Sinh-đệ tử nội môn mà Thanh Tĩnh Quân mới thu nhận, La Thập Tam thì không tham gia buổi lễ.
Để tránh Nhập Tái nhận ra mình, Tạp La nói dối là vết thương tái phát, trốn trong điện Thanh Trúc không chịu ra, đồng thời sau khi bên ngoài náo nhiệt lên thì lặng lẽ đẩy cửa sổ ra, trùng hợp nhìn thấy cảnh Cửu Chi Đăng hành lễ bái sư.
Hắn ta không nhớ ca ca mình có một đứa con giống gà con như thế.
Nhưng chỉ cần nhìn vẻ mặt, phong thái ấy, da mỏng thịt mềm hệt như Nhạc Vô Trần phiên bản nhỏ, liếc mắt một cái thôi, Tạp La đã cảm thấy cậu ta có tướng phản nghịch, không thể tin tưởng dễ dàng.
Tạp La ngồi xổm bên cửa sổ, không tình nguyện buông bỏ kế hoạch trong ứng ngoài hợp với con tin này, giành được sự tin tưởng, từ đó mà thuận lợi giết chết Nhạc Vô Trần.
Hắn ta âm thầm nghiến răng: Huynh trưởng đúng là chẳng được tích sự gì, đưa tới tên lính không đáng tin cậy gì hết!
Xem ra vẫn phải để hắn ta tự mình ra tay thôi!
Cửu Chi Đăng không vào trong điện đệ tử ở.
Kiếp trước, qua một khoảng thời gian rất lâu Thanh Tĩnh Quân mới biết Cửu Chi Đăng từng chịu không ít uất ức khi ở trong điện đệ tử.
Trong Phong Lăng Sơn trước giờ đều không có thói ức hiếp người lớp dưới, ngẫu nhiên có con sâu làm rầu nồi canh cũng là trường hợp đặc biệt.
Hơn một năm trước khi Cửu Chi Đăng đến, từng có một đệ tử được thế gia tu tiên gửi vào môn phái, ỷ vào việc có chỗ dựa vững chắc mà táy máy tay chân với Từ Bình Sinh vừa mới vào môn phái để học tập và rèn luyện, bị Từ Hành Chi hồi đó vẫn chưa là đệ tử đứng đầu Phong Lăng lấy bạo chế bạo đánh cho nhừ tử.
Chuyện lần đó ầm ĩ không nhỏ, quân trưởng của ba môn phái khác đều hỏi chuyện. Sau khi xử phạt Từ Hành Chi và đệ tử đó xong, Quảng Phủ Quân chỉnh đốn lại một lượt tác phong và kỷ luật trong núi, từ đó, mỗi một đệ tử Phong Lăng đều tự giác, không dám ỷ vào lai lịch mà ngông cuồng nổi loạn.
Nhưng xuất thân của Cửu Chi Đăng chình ình ra đó, các đệ tử không bắt nạt cậu ta nhưng cũng không coi cậu ta là người cùng phe với mình, Cửu Chi Đăng lại không phải người hướng ngoại, vì thế cậu ta dần quen một mình đơn độc.
Sống chung với nhiều người qua năm này tháng nọ, ngoại trừ khiến Cửu Chi Đăng càng ngày càng hiểu rõ mình là người dị tộc ra thì chẳng có lợi ích gì cả.
Khi Từ Hành Chi tết tóc cho Cửu Chi Đăng theo kiểu của đạo môn, Thanh Tĩnh Quân nói với Nhập Tái: “Đồ đệ đứng đầu của ta Từ Hành Chi sống một mình một điện, đồ đệ thứ ba Từ Bình Sinh thì ở điện bên trái, điện bên phải vẫn để trống. Để Cửu Chi Đăng ở điện bên phải, ngươi thấy thế nào?”
Nhập Tái bị các đệ tử Phong Lăng nhìn chằm chằm đã thấy như có gai đâm sau lưng, mặt đổ đầy mồ hôi nóng, đau nhói không ngừng, làm gì còn tâm trạng so đo việc nhỏ nhặt như sắp xếp nơi ở với Thanh Tĩnh Quân, hắn ta chắp tay nói bừa: “Cứ theo sắp xếp của Thanh Tĩnh Quân.”
Đối với Nhạc Vô Trần, Nhập Tái chẳng nghiền ngẫm kỹ, tới khi nghi thức nhận nhận đệ tử long trọng đến mức làm mất hết mặt mũi của ma đạo kết thúc, Nhập Tái và Lục Vân Hạc hốt hoảng rời khỏi núi, trên đường về mới nhớ ra một chuyện:
Trong buổi lễ nhận đồ đệ, hắn ta đã thấy Từ Hành Chi, cũng thấy Từ Binh Sinh đứng bên cạnh Thanh Tĩnh Quân từ đầu đến cuối, nhưng “đệ tử thứ hai” chẳng rõ tên họ kia chưa từng xuất hiện.
Nhưng lần này nhuệ khí của ma đạo sụt giảm nghiêm trọng, Nhập Tái làm gì còn lòng dạ nào quan tâm đệ tử thứ hai gì đấy có tên họ là gì, trông ra sao chứ, trong đầu hắn ta cũng chỉ thoáng hiện thắc mắc đấy rồi thôi.
Nhạc Vô Trần bảo Từ Hành Chi dẫn Cửu Chi Đăng về điện mới rồi tới phòng đan dược một chuyến, lấy ít đan dược mới luyện, đích thân mang qua đó, coi như quà gặp mặt mà sư phụ cho đồ đệ mới.
Cửu Chi Đăng còn nhỏ tuổi đã hiểu lễ tiết, cũng biết ai thật lòng tốt với mình. Cậu ta bưng đan dược trong tay, hành lễ trang trọng với Nhạc Vô Trần: “Cảm ơn sư phụ.”
“Không cần cảm ơn ta.” Nhạc Vô Trần dịu giọng nói: “Có cần viết một bức thư báo bình an cho mẫu thân ngươi không?”
Cửu Chi Đăng thấy ấm áp trong lòng, đáp: “Cảm ơn sư phụ quan tâm. Trước khi đến đây, đệ tử đã chào tạm biệt mẫu thân rồi.”
Phải, tất cả mọi chuyện đều khác rồi.
Kiếp trước, Thanh Tĩnh Quân không coi trọng việc đưa con tin này tới đây, vì thế Cửu Chi Đăng chưa được nhận bất cứ thông báo gì đã bị tống tới đây, đúng lúc ba đệ tử đứng đầu của ba môn phái còn lại đến Phong Lăng làm việc, lần lượt trình bày tình trạng thương vong của các môn phái trong trận chiến tiên ma lần này, công việc trong núi chưa ổn định, rối tung hết cả lên, nào có ai quan tâm tới cảm xúc của tên con tin này.
May mà Hành Chi nhiệt tình, hỏi tại sao Cửu Chi Đăng lo lắng rồi gọi Khúc Trì đến, cậu và Khúc Trì xông vào tổng đàn ma đạo gửi thư, vì thế mà chịu ba mươi côn Huyền Vũ.
Sau khi tỉnh rượu Thanh Tĩnh Quân mới biết được những chuyện đó, đau lòng mà không thể làm gì được.
Nhưng lần này, y sẽ không để Hành Chi phải chịu chút xíu ấm ức nào.
Y tháo một cái lệnh bài ngọc bên eo xuống, tiện tay đưa cho Từ Hành Chi rồi nói với Cửu Chi Đăng: “Ngươi còn nhỏ, rời xa nhà từ sớm, trong lòng nhớ mẫu thân là chuyện bình thường, nếu muốn gửi thư về nhà thì tìm Từ sư huynh của ngươi, bảo thằng bé dùng tín vật của ta đi ra ngoài, gửi thư giúp ngươi là được.”
Cửu Chi Đăng không nói gì, chỉ gập người xuống, hành lễ thật sâu với Nhạc Vô Trần.
Từ Hành Chi phe phẩy quạt cười nói: “Nhìn xem, lời ta nói với ngươi không sai chứ. Sư phụ rất thân thiện, là sư phụ tốt nhất thiên hạ.”
Nhạc Vô Trần mỉm cười, nghĩ: Vẫn chưa đủ, tốt thêm chút nữa cũng không sao.
Nhưng khi Nhạc Vô Trần từ điện mới về, chưa vào điện Thanh Trúc đã nghe thấy Quảng Phủ Quân gào lên trong điện: “Ngươi đứng ngay ngắn cho ta!”
Nhạc Vô Trần khẽ nhíu mày, đẩy cửa đi vào, chỉ thấy bàn đọc sách của mình bị lật ngược lên, các cuốn sách thẻ tre lăn trên đất, mực đỏ mới mài trong nghiên mực tóe ra nửa gian điện, giá bút ngọc xanh thì vỡ đôi.
Kẻ đầu sỏ đứng dựa vào tường, nhìn thấy Nhạc Vô Trần vào điện thì thờ ơ vươn tay xoa mũi.
Quảng Phủ Quân thấy Nhạc Vô Trần đến thì tức giận tố cáo: “Sư huynh, đệ thấy hắn lục lọi trong điện thì bảo hắn ngồi xuống tĩnh tâm chép kinh, không được đi lại lung tung. Nhưng hắn vừa mới ngồi xuống đã bắt đầu giở thói ngang ngược!”
Đến bây giờ Quảng Phủ Quân vẫn không biết nên dạy dỗ tên ma tướng hoàn toàn không có linh lực, mất hết ký ức, giống hệt phàm nhân này thế nào nhưng tuyệt đối không thể để hắn ta đến Phong Lăng làm mưa làm gió!
Nhạc Vô Trần nghe vậy thì cúi người xuống nhặt nghiên mực đỏ lên, nâng bàn dậy, đặt nghiên mực lên mặt bàn, chậm rãi hỏi Tạp La: “Tại sao lại nổi cáu?”
Tạp La nhướng mày một cách phách lối, chỉ thẳng mặt Quảng Phủ Quân: “Tự dưng hắn bắt ta chép kinh. Ta không muốn chép.”
Đương nhiên đây không phải nguyên nhân chính khiến hắn ta nổi quạu.
Mặc dù hắn ta đã quyết định phải tự tay giết Nhạc Vô Trần nhưng Nhập Tái lại để lại một thằng nhãi vô dụng rồi đi về, điều này khiến Tạp La phiền muộn muốn chết. Hắn ta bèn lục lọi linh tinh trong điện Thanh Trúc, muốn tìm bảo vật gì đó rồi giấu đi chuẩn bị cho lúc cần dùng, ai ngờ các hòm có thể chứa đồ trong điện đều bị linh lực phong bế.
Nhạc Vô Trần không dùng phong ấn cao cấp gì cả, nếu là Tạp La của ngày trước, hắn ta gảy ngón tay một cái thôi sẽ mở ra được ngay.
Nhưng mà hắn ta của hiện tại chỉ có thể cào lung tung ở bề mặt cái hòm.
Trước khi Quảng Phủ Quân đi vào trong điện, Tạp La đã ôm một bụng cáu tức, ngay cả hình tượng cừu non nhỏ bé yếu đuối cũng không muốn đóng giả nữa, sau đó hắn ta nhân cơ hội Quảng Phủ Quân bắt mình chép sách mà bùng nổ luôn, vung tay lật cả bàn.
Nhìn thấy Quảng Phủ Quân thẹn quá hóa giận, cuối cùng Tạp La cũng tìm được chút vui vẻ nhưng Nhạc Vô Trần lại bình thản, cứ như hành động phá hoại của hắn ta chẳng đáng để y nổi giận, ngược lại cảm giác sung sướng không dễ gì mới có của hắn ta bị đánh tan hơn nửa.
Nhạc Vô Trần nghe hắn ta nói nguyên nhân nổi nóng xong thì dịu giọng nói: “Chép kinh hỗ trợ tu thân dưỡng tính, là chuyện tốt.”
Tạp La cứng đầu cứng cổ: “Ta không chép.”
Nhạc Vô Trần nói trúng tim đen hỏi ngược lại: “Không muốn chép hay không biết chép?”
Tạp La: “…”
Nhất thời Tạp La mất hết mặt mũi.
Trong ma đạo, hắn ta dựa vào việc vừa ra đời đã thức tỉnh huyết thống ma đạo và thiên phú siêu việt, lúc nhỏ chỉ dựa vào hình vẽ minh họa trong kiếm kinh đã có thể đánh bại một đám con cháu ma đạo cùng tuổi, chẳng thèm để quân sư tôn trưởng nào vào mắt, nhìn ai cũng như nhìn con, vì thế không một ai dám bắt hắn ta đọc sách tập viết.
Nói trắng ra là, ngoại trừ tên mình ra, Tạp La không biết chữ nào hết, thậm chí còn có cái tật cầm bút là đau đầu đau mắt.
Vì thế lúc hắn ta bị Quảng Phủ Quân kéo lại bàn rồi ngồi xuống, liếc mắt cái đã thấy thiên thư dày đặc, nhìn một đống chữ mênh mông như biển mới ngớ ra mình không biết chữ nào cả, từ đó mà cực kỳ tức giận, gây ra cảnh tượng bừa bãi này.
Mặt Tạp La lúc đỏ lúc trắng, lúng túng đến mức khó chịu, vì vậy khi được Nhạc Vô Trần đè vai, ấn xuống ngồi vào trước bàn một lần nữa, hắn ta chỉ vùng vằng mấy cái tượng trưng: “Người làm gì thế?”
Nhạc Vô Trần dùng ánh mắt ra hiệu Quảng Phủ Quân tạm thời lùi qua một bên, ngay sau đó y vén áo quỳ xuống ở phía sau Tạp La, nhặt cái bút lông bị rơi ở bên cạnh và một cuốn sách thẻ tre trống lên, trải cuốn sách thẻ tre ra bàn, cầm bút chấm vào mực còn sót lại trong nghiên mực, nhét bút vào tay trái Tạp La, tay trái y cũng theo tới nắm lấy tay trái hắn ta.
Cả người Tạp La chấn động, chỉ cảm thấy cơ thể rơi vào vòng ấm áp mềm mại, còn rất thơm nữa.
Ngày trước Tạp La đã quen cô độc một mình, bị người khác chạm vào vai từ đằng trước cũng đã thấy khó chịu rồi, chỉ muốn chặt tay đối phương xuống, bây giờ, một là hắn ta được ôm mà còn thấy thoải mái, hai là không còn khả năng chặt tay người ta nữa nên hắn ta không nổi quạu.
“Tay phải ngươi bị thương.” Nhạc Vô Trần vừa sửa lại động tác cầm bút của hắn ta vừa nói: “Nếu ngươi không biết viết chữ thì bắt đầu học từ con số không, vậy thì không cần phân chia tay trái tay phải làm gì.”
Nhạc Vô Trần nói chuyện mang giọng mũi hơi nặng, hơi thở ấm áp phả ra từ miệng lướt qua tai Tạp La, khá là dễ chịu, nhưng vừa nghe đến câu “tay phải bị thương”, vết sẹo trong lòng Tạp La bị vạch ra, hắn ta lại thấy căm phẫn, hận không thể đạp một phát vào bụng người phía sau.
Nổi giận được một lúc, hắn ta lại để ý thấy một chi tiết nhỏ.
Hắn ta nhớ trước đó Nhạc Vô Trần liều chết chém giết hắn ta đã dùng tay phải nhưng bây giờ y lại cầm bút bằng tay trái…”
Hắn ta biết mà còn hỏi: “Sư phụ, người thuận tay trái hả?”
Nhạc Vô Trần bình thản đáp: “Tay trái tay phải đều dùng được.”
Tạp La đắc ý, âm thầm ghi nhớ trong lòng: Sau này nếu muốn giết Nhạc Vô Trần thì phải cẩn thận hắn có thể dùng kiếm bằng cả hai tay.
Rất nhanh sau đó, Nhạc Vô Trần bắt đầu dạy hắn ta đưa bút viết chữ.
Tạp La cảm thấy khá mới mẻ. Cảm giác mới lạ này không đến từ từng chữ vuông vắn dần hình thành dưới ngòi bút của hắn ta mà đến từ Nhạc Vô Trần phía sau.
Trước đó y thấp hơn hắn ta một mẩu, bây giờ lại cao hơn hắn ta rất nhiều, cảm giác cằm y khẽ cọ vào đỉnh đầu hắn ta rất vi diệu. Người kia còn chưa tháo mũ ngọc và cởi bộ quần áo trắng mặc trong buổi lễ ra nhưng hắn ta vẫn có thể cảm nhận được cơ ngực dưới lớp xiêm y mỏng mềm một cách rõ ràng.
Tạp La không cần quay đầu lại cũng biết có một gương mặt vừa đoan chính vừa trang nhã cách mình có mấy tấc.
Trước kia Tạp La không có tâm tư gì với chuyện nam nữ, thậm chí còn coi đó là sỉ nhục, coi thường đám nam nữ trong Hợp Hoan Tông nhất, vì thế hắn ta không hề suy nghĩ linh tinh gì hết, chỉ cảm thấy Nhạc Vô Trần ôm hắn ta tập viết thế này rất thoải mái và thú vị.
Thậm chí hắn ta còn nghĩ, tiên sinh ở trường học trên thế giới này cũng ôm học trò viết chữ như Nhạc Vô Trần, chẳng phải thiên thư gì cũng sẽ học được sao?
Điều khiến hắn ta thấy tiếc nuối là Nhạc Vô Trần chỉ hướng dẫn hắn ta viết ba dòng rồi buông tay ra: “Biết chưa?”
Đương nhiên Tạp La lắc đầu.
Không ngờ Nhạc Vô Trần không mắc mưu của hắn ta, đứng dậy cầm một quyển sách tới, ôn hòa nói: “Ta dạy ngươi viết theo quyển kinh thư này. Ngươi cứ chép chính tả theo chữ trên này là được.”
Tạp La nói: “Ta không hiểu trên đó viết gì, chép có tác dụng gì chứ?”
Nhạc Vô Trần đặt bút xuống: “Không hiểu thì ngươi hỏi Nhạc sư thúc của ngươi.”
Tạp La cười: “Sư phụ, ta vẫn chưa biết cầm bút, người dạy ta thêm đi.”
Nhạc Vô Trần mặc kệ hắn ta làm nũng, hỏi hắn: “Muốn học kiếm pháp không?”
Đương nhiên Tạp La ngoan ngoãn gật đầu, đâu còn vẻ hỗn thế ma vương la lối om sòm như vừa nãy nữa.
Nhạc Vô Trần nói: “Muốn học kiếm pháp thì trước hết phải biết chữ đã. Kiếm pháp Phong Lăng bắt nguồn từ tâm pháp, nếu không chịu tu tâm thì kiếm pháp học được cũng chỉ là trò mèo thôi.”
Tạp La như không thể chờ đợi được nữa, dù sao thì phải bắt đầu học kiếm pháp, hắn ta mới có thể có nhiều cơ hội để giết Nhạc Vô Trần hơn.
Hắn ta hỏi: “Sư phụ, khi nào người mới dạy ta học kiếm?”
Nhạc Vô Trần đặt quyển sách lên bàn, giơ tay chỉ sang bên cạnh: “Chép hết những quyển sách kia xong, hiểu hết chúng thì ta sẽ dạy ngươi.”
Tạp La giương mắt nhìn, một búng máu nghẹn giữa cổ họng.
Đó là giá sách kín hết một mặt tường, các quyển trục và sách theo trang nhiều như biển, vô số quyển gộp lại, ít nhất cũng phải lên tới hàng nghìn!
Tạp La nghi ngờ Nhạc Vô Trần không hề có ý định dạy mình kiếm pháp.
Hắn ta tức giận nghiến răng kèn kẹt nhưng lại không tiện trở mặt với Nhạc Vô Trần, đành phải nổi cả gân xanh đồng ý: “Vâng thưa sư phụ, đệ tử hiểu rồi.”
Nhạc Vô Trần đẩy quyển sách trên bàn lên trước: “Chép quyển này hai mươi lần, hôm nay nộp lên cho ta.”
Tạp La nghẹn họng, chất vấn: “Tại sao?”
Nhạc Vô Trần nhìn giá bút ngọc xanh trên đất, thong thả nói: “Ta rất thích giá bút này. Ngươi nổi cáu vô cớ, nên chịu phạt.”
Tạp La sầm mặt.
Nhạc Vô Trần phủi bụi trên gối đi, nói với Quảng Phủ Quân khoanh tay chờ bên cạnh: “Khê Vân, đệ vất vả rồi, trông chừng bên cạnh hướng dẫn hắn nhé.”
Y bỏ lại câu đó rồi rời khỏi điện Thanh Trúc, chỉ còn lại Tạp La ngồi quỳ trước bàn, tức đến mức tay run lên, trong đầu toàn là tên họ Nhạc kia ta đệt mười tám đời tổ tông nhà ngươi.
Có một thoáng hắn ta nghĩ, ông đây bỏ đi cho rồi, thiên hạ rộng lớn, có nơi nào hắn ta không thể đi chứ? Dựa vào đâu mà phải ở đây chịu chỉ trích?
Nhưng mà hắn ta nhanh chóng phát hiện ra quả thực hắn ta chẳng thể đi đâu được nữa.
Về mà đạo thì đồng nghĩa với tự tìm đường chết, tới trần gian thì hắn ta không tiền không quyền, ngay cả chốn đặt chân cũng không có.
Ở lại nơi này, tốt xấu gì vẫn còn cơ hội báo thù.
Hắn ta hung tợn nắm chặt bút lông, chép theo quyển sách mà hắn ta chẳng hiểu nó viết gì, nét bút như con giun bò lung tung, tạo ra khác biệt rõ ràng với ba dòng chữ ngay ngắn phía trên.
Cũng không biết vì sao, nhìn thấy ba dòng chữ sạch sẽ ngay ngắn kia, nghĩ đến lòng bàn tay khô ráo ấm áp của người kia khi dạy mình cầm bút, cảm xúc nóng nảy bực bội ngập tràn trong lòng Tạp La đã giảm bớt.
Nhạc Vô Trần đi ra khỏi điện Thanh Trúc mới thở phào một hơi.
Bây giờ có một người khác cần phải giám sát, chắc hẳn Khê Vân sẽ không hoạnh họe Hành Chi nữa.
Nghĩ đến điều này, y nghe thấy tiếng động lộc cộc quen thuộc, trái tim bỗng xao động mãnh liệt, giương mắt lên nhìn thì đúng lúc thấy một thiếu niên ngồi trên xe lăn được người ta đẩy tới, đi ngang qua chỗ y từ gian điện cách đây không xa.
Nhạc Vô Trần không nhịn được cất tiếng gọi: “Tuyết Trần.”
Thiếu niên có mái tóc điểm bạc nghe tiếng xoay đầu lại, đúng là gương mặt lạnh lùng kiên cường đó.
Nhìn thấy Nhạc Vô Trần, ông cụ non khua tay, đệ tử Thanh Lương Cốc phía sau hiểu ý, đẩy cậu ta tới trước điện Thanh Trúc.
Cậu ta không tiện đi lại nên ngồi trên xe lăn hành lễ với Nhạc Vô Trần: “Thanh Tĩnh Quân.”
Nhạc Vô Trần nuốt sự chua xót nhàn nhạt ở cổ họng xuống, cười hỏi: “Tuyết Trần tới tìm Hành Chi đấy hả?”
“Vâng. Hôm nay ta tới vì việc riêng nên không gửi thiệp chính thức vào núi, kính mong Thanh Tĩnh Quân thông cảm.” Ôn Tuyết Trần hơi khom người nói: “Nửa tháng nữa là sinh nhật ta rồi. Ta muốn mời Hành Chi tới Thanh Lương Cốc một chuyến.”
Chép hết hai mươi lần kinh văn xong, Tạp La cầm chén nước mà tay cũng run, trước kia hắn ta cầm kiếm đồng nặng mấy chục cân luyện tập suốt cả ngày cũng không thấy mệt thế này.
Sau khi linh mạch bị tổn thương, mất hết pháp lực, hắn ta phải dựa vào ăn uống cơm nước như người phàm để duy trì cuộc sống bình thường. Mấy ngày trước vết thương của hắn ta quá nặng, Nhạc Vô Trần đã nấu cháo thịt băm cho hắn ta ăn, điều dưỡng cho hắn ta bình phục, Tạp La vừa ăn vừa thầm chê bai, dù sao lúc ở ma đạo không ai dám cắt xén rượu thịt của hắn ta, tí xíu thịt băm nhạt nhẽo ấy sao thỏa mãn ham muốn ăn uống của hắn ta được.
Nhưng bây giờ…
Tạp La nhìn đĩa cải trắng, một đĩa đậu phụ và một bát cơm trắng trên bàn, cảm thấy mình bị sỉ nhục.
Mẹ nó chứ cho cừu ăn à?
Tạp La không cùng ăn cơm với các đệ tử khác mà được hưởng đãi ngộ đặc biệt, ngồi riêng một bàn trong điện Thanh Trúc.
Lúc đệ tử mang cơm tới, Nhạc Vô Trần và hắn ta đang ở riêng với nhau trong điện.
Tạp La kìm nén lửa giận hỏi Nhạc Vô Trần: “Chỉ có thế này thôi sao?”
Nhạc Vô Trần nghiêng người dựa vào giường nhỏ, để chân trần mặc thường phục, mái tóc dài đã tháo phát quan xõa xuống bên vai, ngậm miệng bầu rượu uống một ngụm Thu Lộ Bạch rồi mới đáp: “Các đệ tử đều ăn thế này.”
Tạp La khó mà tin nổi, cầm đũa lật một miếng đậu lên: “Canh suông nhạt nhẽo thế này, con người ăn được à?”
Nhạc Vô Trần nhếch môi cười: “Không ăn thì không còn gì khác để ăn đâu.”
Tạp La buồn bực ném đũa xuống nổi cáu: “Ta đói chết cũng không ăn cái này.”
Nhạc Vô Trần cũng không khuyên hắn ta thêm, tiếp tục ôm bầu rượu uống phần của mình.
Nhạc Vô Trần yêu rượu nên cực kỳ tập trung uống, không bị quấy nhiễu bởi sự vật bên ngoài, Địa Qua Thiêu mà y cũng uống ra cảm giác như rượu ngon được ủ một cách quý giá, dáng vẻ chăm chú thưởng thức rượu ấy của y thành công chạm tới con sâu rượu trong bụng Tạp La, khiến hắn ta nuốt mấy ngụm nước miếng.
Nhưng bắt hắn ta mở miệng xin Nhạc Vô Trần rượu thì thà để hắn ta đi chết.
Rất nhanh sau đó, trên mặt Nhạc Vô Trần đã hiện vẻ ngà ngà say, dựa vào giường nhỏ ngủ thiếp đi.
Tạp La nghĩ ngợi một lúc lâu rằng có nên nhân cơ hội này bóp chết Nhạc Vô Trần hay không, nhưng nhìn thấy dáng vẻ không chút đề phòng của y, Tạp La lại nghi ngờ y có đặt bẫy cho gì mình không.
Đúng vậy, y biết mình là Tạp La, chắc chắn bây giờ không dễ tin tưởng mình, nếu mình muốn giả bộ mất trí nhớ thì trước khi nắm chắc một trăm phần trăm có thể giết chết y, mình phải giả bộ đến cùng, tránh dã tràng xe cát.
Mẹ nó chứ, không nghĩ nữa, đi ngủ.
Nửa đêm.
Thầy trò vai vế khác biệt, đương nhiên không thể ngủ chung giường, Tạp La ngả ra đất ngủ dưới chân Nhạc Vô Trần nhưng trằn trọc mãi không ngủ được, che cái bụng kêu ùng ục mà nghiến răng nghiến lợi.
Vì đói bụng, trong dạ dày Tạp La như đốt một quả cầu lửa, cả người đổ đầy mồ hôi. Hắn ta đã phải chịu khổ thế này bao giờ đâu, cắn răng cố kiềm chế cảm giác đói, lăn lộn làm cho áo ngủ trên người rối tung lên.
Canh đậu phụ vẫn chưa bị dọn đi, chỉ đặt trong góc gian điện, được phủ lụa mỏng màu xanh lên trên, còn tỏa ra hương thơm.
Đối với người cực kỳ đói mà nói, chút xíu hương thơm thoang thoảng ấy cũng đủ để khiến trái tim Tạp La ngứa ngáy.
Trong lúc hắn ta lăn lộn trên đất, do dự có nên đi ăn không thì người trên giường như nghe thấy tiếng động gì đó, vươn mình ngồi dậy, ngáp một cái, gọi hắn ta bằng giọng mũi vừa mới thức dậy: “Thập Tam?”
Tạp La lập tức giả chết nhưng cùng lúc đó còn tức giận đỏ cả mặt.
Nghe giọng điệu mơ màng như vừa tỉnh lại từ giấc ngủ nông của Nhạc Vô Trần, chẳng lẽ y ngủ thật?
Thế vừa nãy hắn ta xoắn xuýt cái rắm à, cầm lọ hoa đập chết Nhạc Vô Trần luôn có phải xong rồi không?
Cùng lúc đó, Nhạc Vô Trần lặng lẽ thu hồi pháp thuật phòng thân.
Y bước xuống khỏi giường, gọi hắn ta tiếp: “Thập Tam?”
Giọng điệu rất dịu dàng, không hề hung tợn như lúc muốn đẩy hắn ta vào chỗ chết vào hôm đó, giọng nói mềm mại khiến lửa giận trong lòng Tạp La thoáng dịu xuống.
Thấy hắn ta không đáp lại, Nhạc Vô Trần khoác áo bước xuống đất, đi ra khỏi điện Thanh Trúc rồi khóa cửa lại.
Đi ra ngoài?
Tạp La không kịp nghĩ nhiều, đi chân trần chạy vội tới cạnh bàn, lật tấm lụa xanh lên, không cả kịp cầm đũa, nhét một miếng đậu phụ vào trong miệng luôn.
Cúi đầu nhai một miệng thật to, cuối cùng hắn ta cũng thấy dạ dày dễ chịu hơn.
Sợ Nhạc Vô Trần quay lại phát hiện ra điều khác thường, Tạp La cố ý cầm đũa khuấy miếng đậu còn lại trong bát, cố gắng tạo ra hiện trường giả nó chưa hề bị chạm vào, sau đó hắn ta chạy về giường, chỉnh lại chăn đệm rồi nằm xuống, giả bộ ngủ say.
Không biết qua bao lâu, cửa điện vang lên tiếng kẽo kẹt, mùi thịt thơm nức mũi bay vào từ ngoài cửa, kích thích Tạp La vừa mới lấp trống non nửa cái bụng run mi lên, nuốt nước miếng cái ực.
Hương thơm từ cửa bay tới cái đệm nhỏ của Tạp La.
Nhạc Vô Trần ngồi xổm xuống bên cạnh hắn ta, đẩy cánh tay hắn ta: “Thập Tam, dậy đi.”
Cái bụng của Tạp La lại réo tiếng nữa vào đúng lúc này, hắn ta giả bộ vừa bị đánh thức, chậm rãi xoay người: “Sư phụ?”
Nhạc Vô Trần đưa túi giấy cho hắn ta: “Hôm nay ngươi chép sách cả một ngày rồi, không ăn cơm thì cơ thể sẽ không chịu được. Ta đi xuống núi mua đấy, chân cừu om. Đây là hai cái cuối cùng ở quầy hàng, may mà còn nóng.”
Tạp La sững sờ, ôm hai cái chân cừu tỏa hương thơm ngon, phản ứng đầu tiên là Nhạc Vô Trần đã bỏ độc vào nó, nếu không tại sao tự dưng tốt với hắn ta thế.
“Ăn đi.” Nhạc Vô Trần không biết suy nghĩ của Tạp La, dịu dàng nói: “Bắt ngươi ăn chay luôn đúng là không ổn cho lắm. Dần dần vậy, từ từ làm quen với chạy tịnh, sau này mới có lợi cho ngươi tu hành tâm pháp.”
Có lẽ Tạp La đã đoán được Nhạc Vô Trần có lòng tốt, mà hắn ta cũng đói thật nên ngoan ngoãn không khách sáo nhận luôn: “Cảm ơn sư phụ.”
Hắn ta mở ra túi giấy ra, cắn một miếng.
Giây phút hương thơm nước sốt thịt tràn ngập trong khoang miệng, hắn ta có cảm giác hạnh phúc như được đầu thai làm người.
“Ăn gì bổ nấy.” Nhạc Vô Trần thấy hắn ta ăn ngon miệng thì xoa đỉnh đầu hắn ta, khẽ cười nói: “Bồi bổ nhiều vào, ngày mai tiếp tục chép sách.”
Tạp La nghẹn lời, nhai mấy miếng, không thấy thịt trong miệng ngon nữa.
Đương nhiên, mối thù phá hủy linh thể là thù không đội trời chung, Tạp La sẽ không vì ơn nghĩa nho nhỏ này mà từ bỏ kế hoạch giết Nhạc Vô Trần.
Hắn ta quyết định hạ độc để giết Nhạc Vô Trần. Nhưng rất nhanh sau đó hắn ta nhận ra mình nghĩ nhiều rồi.
Mặc dù bản thân hắn ta có thể phi thăng lên làm đồ đệ đứng thứ hai ở Phong Lăng trong một đêm, nhưng hiển nhiên là Nhạc Vô Trần vẫn đề phòng hắn ta, đệ tử trong phòng luyện đan và phòng thuốc trong núi đều nói sư phụ cố ý dặn dò, nhị sư huynh chưa tu thành linh thể, không được đi vào phòng luyện đan và phòng thuốc, chẳng may uống nhầm thuốc thì tiêu.
Kế này không được thì Tạp La nghĩ ra kế khác, thể hiện tốt suốt bảy, tám ngày trời, cuối cùng cũng nhận được sự cho phép của Quảng Phủ Quân hà khắc, có thể đi chơi trong núi nửa ngày.
Tìm trong núi nửa ngày, Tạp La đi về với bản mặt xám xịt.
Sao trong Phong Lăng Sơn sạch sẽ thế, sao lại không tìm thấy cây cỏ độc nào chứ?
Gặp khó khăn liên tiếp khiến Tạp La càng nôn nóng hơn.
Trong tình cảnh bất đắc dĩ, hắn ta nghĩ tới con gà con mà huynh trưởng đưa tới.
Thân là người của ma đạo, ít nhất cũng phải có can trường và phản kháng chứ nhỉ?
Trùng hợp là Từ Hành Chi cảm thấy hứng thú với nhị sư đệ tên La Thập Tam của mình, nghe nói vết thương của hắn ta đã đỡ hơn, vào một buổi trưa nào đó cậu bèn tự mình đến điện Thanh Trúc, mời Tạp La đến điện của cậu ăn trưa.
Tạp La đồng ý, tính ăn xong sẽ đi tìm tứ sư đệ trên danh nghĩa, thực tế là đứa cháu trai của mình để trò chuyện, thăm dò xem cậu ta có thể trở thành người giúp đỡ mình hay không.
Ai ngờ, bữa trưa này, Từ Hành Chi mời cả Cửu Chi Đăng đến, Từ Bình Sinh cũng có mặt, bốn người ngồi bàn riêng, trước mặt toàn là thức ăn chay.
Sau mấy ngày ăn chay, Tạp La nhìn thấy đồ màu xanh đều bốc lửa giận trong lòng, thế mà nhóc gà con Cửu Chi Đăng lại ăn đống đồ chay ấy một cách ngon lành, tướng ăn yên tĩnh lịch sự, một miếng cải xanh, một miếng nấm, Tạp La nhìn mà càng giận dữ.
Giờ mới chưa được mười ngày, cậu ta bưng bát nhà người khác một cách trôi chảy thế rồi?!
Cửu Chi Đăng trầm tĩnh ít nói nhưng từ nhỏ đã mài giũa ra trái tim nhạy cảm trong giày vò khó khăn. Cậu ta nhìn ra được nhị sư huynh đối diện có ý kiến không nhỏ với mình, mặc dù không biết vì nguyên nhân gì nhưng cậu ta thầm dấy lên sự xa cách, chỉ chăm chú nhìn chằm chằm Từ Hành Chi ngồi ghế trên.
Từ Hành Chi có tính cách cởi mở, hễ nói cười là mặt mày rạng rỡ, Cửu Chi Đăng chỉ nhìn cậu từ xa thôi trong lòng đã tràn ngập quý mến.
Cậu ta không ngờ trên đời này lại có người sống thoải mái vui vẻ như thế.
Tạp La càng nhìn Cửu Chi Đăng càng tức, dừng đũa lại, quay sang Từ Hành Chi hỏi: “Từ sư huynh, huynh biết uống rượu không?”
Trên bàn Từ Hành Chi có một bầu rượu nhưng từ khi buổi tiệc bắt đầu, cậu chưa uống hớp nào.
Nghe Tạp La hỏi như thế, cậu đáp: “Cũng tạm được. Sao thế, La sư đệ cũng giỏi uống rượu à?”
Tạp La nở nụ cười: “Đương nhiên rồi. Không tin thì chúng ta thi đi?”
Tửu lượng của Tạp La như biển, không một ai trong ma đạo có thể thắng Tạp La trong chuyện uống rượu, trước mặt là một nhóc con chưa trưởng thành, đương nhiên hắn ta chẳng coi ra gì.
Nghe nói Từ Hành Chi được Nhạc Vô Trần thương yêu vô cùng, nếu khiến nhóc họ Từ này quá chén, hắn ta nhân cơ hội chăm sóc cậu, có khi lại tìm được bảo vật có giá trị lợi dụng gì đó trong phòng cậu.
Hắn ta lập ra kế hoạch xác đáng như thế, ai ngờ Từ Hành Chi chỉ lấy một chén nhỏ, cẩn thận rót một chút xíu vào đáy chén: “Nào, cho ngươi đỡ thèm, nhấp môi thôi.”
Tạp La sầm mặt: “Từ sư huynh, huynh không hẹp hòi đến mức đấy chứ?”
Từ Hành Chi nói: “Ngươi bị thương nặng mới khỏi, uống rượu không tốt. Nhấp môi một tí cho có là được.”
Tạp La: “…”
Từ Hành Chi bổ sung: “Hơn nữa ngươi còn nhỏ, ta và ngươi thi uống rượu, chẳng phải bắt nạt ngươi à?”
Tạp La gần như muốn cười khẩy ra tiếng.
Hắn ta nhận chén Từ Hành Chi đưa cho, nuốt ngụm rượu ngon ấy xuống.
Tên nhóc kia, để ta cho ngươi biết thế nào là thần rượu.
Mới được một chốc, Tạp La cảm thấy đầu nặng trĩu chân nhẹ tênh, hai má ửng đỏ, rầm một tiếng gục xuống bàn.
Tạp La đã quên mất bây giờ hắn ta chỉ là một người phàm không có pháp lực, còn là một đứa trẻ con nữa, sao mà uống rượu nổi?
Từ Hành Chi nhìn tư thế hắn ta uống rượu còn tưởng tửu lượng của hắn ta khá được, không ngờ lại gục nhanh như thế, nhất thời dở khóc dở cười, cậu vươn tay gọi Cửu Chi Đăng: “Tiểu Đăng, phụ với ta một tay, đỡ hắn vào phòng của ta nghỉ ngơi.”
Cửu Chi Đăng chưa bao giờ được người khác gọi một cách thân thiết như thế, hơi đỏ mặt đi lên phía trước nhưng mà Tạp La đẩy Từ Hành Chi ra, lảo đảo ngã lên người Cửu Chi Đăng, đè cho cậu ta loạng choạng.
Từ Hành Chi muốn tiến lên đỡ nhưng lại bị Tạp La đẩy ngực ra.
Từ Hành Chi chậc một tiếng: “Tên nhóc này ngang ngược ghê đấy.”
Cửu Chi Đăng dùng cơ thể gầy yếu cố gắng đỡ được Tạp La, nói: “Sư huynh, một mình đệ đưa hắn vào vậy.”
Dường như Tạp La rất kháng cự mình, mà cũng chỉ có mấy bước chân, Từ Hành Chi không nghĩ nhiều, thuận miệng nói: “Đi đi, đi đi. Đi nhanh về nhanh.”
Tới khi nghe thấy tiếng tranh cãi và xô đẩy, Từ Hành Chi nhận ra điều không ổn, rời khỏi bữa tiệc đi vào trong điện của mình, Cửu Chi Đăng đã ngã trên đất, đau đớn che cánh tay trái, khuôn mặt nhỏ hơi tái.
Tạp La nằm nhoài trên giường nhỏ, rì rầm mắng: “Ngươi là tên rác rưởi… Cần ngươi, cần ngươi làm gì… Đứng núi này trông núi nọ, quên xuất thân của mình…”
Từ Hành Chi ôm Cửu Chi Đăng lên trước, vạch tay áo của cậu ta ra kiểm tra vết thương, khuỷu tay trái cậu ta sưng một mảng to, Từ Hành Chi xoa ấn một lúc mới yên tâm: “Vẫn ổn, không bị thương tới xương, không sao đâu… Hắn bị làm sao thế?”
Đối với việc tự dưng Tạp La trút giận lên đầu mình, Cửu Chi Đăng cũng không tìm được manh mối, đáp: “Đệ không biết.”
Tạp La tiếp tục nói mớ: “Một kẻ trong ma đạo… Mặt người dạ thú, cũng ra dáng quân tử chính đạo lắm đấy…”
Cửu Chi Đăng nghẹn lời, sắc mặt thoáng thay đổi, cúi đầu khom người hành lễ với Từ Hành Chi, nhỏ giọng nói: “Sư huynh, đệ xin cáo lui trước.”
Từ Hành Chi: “Hày, Tiểu Đăng…”
Cửu Chi Đăng cố gắng ra vẻ không để ý chuyện này, che cánh tay trái, quay người đi ra khỏi điện.
Từ Hành Chi quay lại nhìn Tạp La thì mặt đã lạnh tanh.
Cậu xắn tay áo lên, đi về phía Tạp La nằm trên giường mình mà vẫn lầm bầm không ngừng.
Từ Bình Sinh cũng theo vào điện, cậu ta cũng nhìn thấy cảnh vừa rồi, thấy Từ Hành Chi đi tới với vẻ không lương thiện, cậu ta vội vàng ngăn cản: “Ngươi muốn làm gì?”
Từ Hành Chi lời ít ý nhiều: “Trừng trị hắn.”
Từ Bình Sinh: “Kẻ say rượu, ngươi so đo với hắn làm gì?”
Từ Hành Chi: “Say rượu hại người thì không tính là hại người à?”
Từ Bình Sinh cau mày: “Ngươi đừng gây rắc rối. Hắn là nhị đồ đệ mà đích thân sư phụ thu nhận, chẳng may sau này hắn muốn so đo thì sợ sư phụ cũng không bảo vệ ngươi được.”
Từ Hành Chi vẫn nghe lọt lời huynh trưởng nói, cậu nghĩ một lúc, đi đến bên giường, giọng điệu hiền hòa hơn, nói với Tạp La: “Thập Tam, ngươi biết ngươi đã làm gì Tiểu Đăng không? Tỉnh rượu thì theo ta đi xin lỗi hắn, nghe thấy chưa?”
Tạp La thô lỗ nói: “Xin lỗi cái rắm.”
Từ Bình Sinh nhìn trời.
Xong luôn.
Ngay cả cậu ta cũng chẳng thể ngăn cản Từ Hành Chi được nữa.
Từ Hành Chi nhìn chằm chằm Tạp La, không quay đầu lại mà nói: “Huynh trưởng, đánh hắn xong đệ sẽ tự đi nhận phạt.”
Từ Bình Sinh vẫn muốn cứu vãn thêm tí nữa: “Trên người hắn có vết thương… Đừng ra tay mạnh quá.”
Từ Hành Chi đáp: “Đệ biết chừng mực.”
Lúc quần bị tụt xuống đầu gối, Tạp La đã có cảm giác không ổn, rì rầm muốn đứng dậy nhưng không còn kịp nữa.
Phía sau hắn ta truyền đến tiếng vang chan chát.
Đầu hắn ta kêu ong một tiếng, tưởng mình đang nằm mơ, tay phải run rẩy xoa cái mông trơn nhẵn bị đánh tê rần, khi thật sự cảm nhận được cơn đau, hắn ta mới nổi khùng: “Ngươi dám đánh ta?”
Từ Hành Chi ấn hắn ta xuống giường, hỏi ngược lại: “Ngươi đánh người khác thì được, còn ta không đánh ngươi được à?”
Tạp La tức đến mức máu nóng dồn lên não từng đợt, ra sức vùng vẫy, nhưng cơ thể người trần sao thoát khỏi người mới từng tuổi này đã dễ dàng đạt tới tu vi cấp Kim đan như Từ Hành Chi, chỉ trong nháy mắt hắn ta ăn mười phát vỗ, men say đã bị trận đánh bùm bụp xua tan hết.
Hắn ta muốn hộc máu, ưỡn cổ lên mà chửi mắng, mãi đến tận khi đau không chịu nổi nữa, sự hung hăng kiêu ngạo mới tém lại, suýt xoa hít không khí lạnh lẽo, xoay tới xoay lui hòng tránh khỏi tay Từ Hành Chi.
Sau khi đánh hắn ta một trận tơi bời, Từ Hành Chi dẫn Tạp La về điện Thanh Trúc để nhận tội.
Tạp La không ngờ tên khốn kiếp Từ Bình Sinh lại làm chứng cho Từ Hành Chi là hắn ta bắt nạt Cửu Chi Đăng trước.
Đáng giận hơn là Nhạc Vô Trần nghe bọn họ trình bày xong thì không phạt Từ Hành Chi, phất tay bảo cậu về, Nhạc Khê Vân còn nói hắn ta ức hiếp đồng môn, bắt hắn ta chép “Lịch sử Phong Lăng” mười lần, coi đó là trừng phạt.
Tạp La túm thắt lưng lỏng lẻo của mình, tức hoa cả mắt.
Đám ngụy quân tử chính đạo này đúng là cá mè một lứa! Kẻ nào kẻ đấy đều không phải thứ tốt lành!
Cái tên Từ Hành Chi vốn nằm ở vị trí thứ tư trong cuốn sổ chết chóc của mình bỗng thăng hạng vùn vụt, thoắt cái đã lên đầu danh sách.
Ba ngày sau, cơn đau dần hết, Tạp La mới nghiến răng nghiến lợi cho cậu tụt xuống vị trí thứ hai.
Từ Hành Chi không biết trong đầu sư đệ này đang nghĩ tới chuyện giết người phóng hỏa, ngay chiều hôm đánh hắn ta cậu đã mang thuốc trị thương tới, ai dè bị Tạp La ném hết vào rừng trúc ở phía sau điện Thanh Trúc.
Sư đệ khó dạy bảo thật sự khiến Từ Hành Chi phiền muộn nhưng sinh nhật của Ôn Tuyết Trần khiến cậu nhanh chóng quên đi mâu thuẫn với vị sư đệ ấy.
Vào hôm sinh nhật Ôn Tuyết Trần, cậu xách theo hộp đốt nhang trầm làm bằng vàng bạc đã chuẩn bị từ lâu và mười quyển độc bản sách cổ về phong thủy cậu bắt đầu thu thập từ nửa năm trước, lúc chuẩn bị đi, ra tới cổng núi thì gặp được Nhạc Vô Trần đã thay sang trang phục để ra ngoài.
Từ Hành Chi mừng rỡ tiếp đón: “Sư phụ, người cũng đi ạ?”
Nhạc Vô Trần nở nụ cười hiền hòa như quân tử, sáng trong như nước: “Đi cùng con.”
Từ Hành Chi cười tươi: “Thế người tặng quà gì?”
Nhạc Vô Trần đưa hộp quà nhỏ sau lưng qua, nói: “Tâm bệnh của Tuyết Trần rất nặng, ta tặng hắn ít thuốc, có tác dụng bảo vệ tim mạch.”
“Sư phụ có lòng quá.” Từ Hành Chi cười đùa không có quy củ: “Bây giờ hai chúng ta đi luôn thôi nhỉ?”
Nhạc Vô Trần cúi đầu cười, như có gió mát lướt qua: “Đi thôi.”
Ôn Tuyết Trần thích yên tĩnh nên chỉ mời mấy người quen đến cốc dự tiệc sinh nhật của mình. Nhạc Vô Trần sợ mình ở đó làm mấy đứa mất tự nhiên nên trước khi vào cốc đã tách khỏi Từ Hành Chi, đi tìm Thanh Lương Cốc Phù Diêu Quân chơi cờ uống rượu.
Từ Hành Chi nhẹ nhàng phe phẩy cây quạt, thưởng thức Thanh Lương Cốc hiếm khi mới náo nhiệt được một tí, mỗi một đệ tử Thanh Lương Cốc đi ngang qua cậu đều cực kỳ hiểu phép tắc gọi cậu “Từ sư huynh”, cậu đều gật đầu đáp lại hết.
Đi qua cánh cổng thứ hai của Thanh Lương Cốc, xuất hiện trước mắt Từ Hành Chi là một con đường đi xuống dài dằng dặc.
Ánh nắng như thác nước, lóa mắt cực kỳ, thoáng có gió nhẹ thổi qua làm tung bay dây buộc tóc sau đầu Từ Hành Chi. Cậu che quạt trên đỉnh đầu, híp mắt nhìn về cuối đường, thấy mấy bóng người quen thuộc người đứng người ngồi đang nói chuyện ở đó, cậu bèn nở nụ cười tươi rói xán lạn có một không hai.
“Chu mập! Ôn tóc trắng! Khúc Trì! Tiểu Huyền Nhi!”
Nghe thấy tiếng gọi phía sau, thiếu niên Chu Bắc Nam mặc áo tím, khoanh hai tay trước người quay đầu lại trợn trừng mắt lên, bất mãn trách mắng: “Ngươi tới muộn quá rồi đấy.”
Phát quan hình trăng khuyết trên đầu cậu ta khảm mấy viên ngọc, rạng rỡ lấp lánh dưới ánh mặt trời.
Một thanh niên khác mặc áo đỏ thắt lưng trắng nghe tiếng gọi ấy thì khẽ cười, đáp lại: “Hành Chi, đến rồi đấy à?”
Ôn Tuyết Trần cầm vòng âm dương, hờ hững nói: “Hô này hò kia, chẳng ra thể thống gì.”
Chu Huyền đẩy xe lăn của Ôn Tuyết Trần che miệng cười: “Từ sư huynh, huynh mau qua đây đi. Ôn sư huynh vừa hỏi sao huynh mãi chưa đến đấy.”
Ôn Tuyết Trần nhíu mày, quở trách: “Không được nói linh tinh.”
Chu Huyền bật cười, cúi người xuống nói bên tai Ôn Tuyết Trần: “Được, không nói linh tinh. Hôm nay là sinh nhật của Trần ca, Trần ca lớn nhất.”
Ôn Tuyết Trần nghe vậy thì mất tự nhiên nghiêng mặt đi chỗ khác, gò má nhợt nhạt hơi ửng hồng.
Từ Hành Chi gấp quạt lại, bước xuống bậc thang, chạy về phía những người bạn thân thiết của mình, trong mắt ngập tràn ý cười.
Tới đêm, bốn người vẫn chưa về núi.
Dưới lời đề nghị của Từ Hành Chi, bọn họ không tới gian điện dành cho khách Thanh Lương Cốc sắp xếp cho họ mà cùng nhau chen chúc trên giường của Ôn Tuyết Trần. May mà giường của Ôn Tuyết Trần mềm mại và rộng rãi, bốn thiếu niên đang trong tuổi ăn tuổi lớn nằm vào cũng không có vấn đề gì.
Ôn Tuyết Trần cảnh cáo trước: “Từ Hành Chi, ngươi đàng hoàng vào cho ta.”
Từ Hành Chi luôn miệng đồng ý.
Bốn người tự chỉnh lại chăn đệm của mình rồi nằm xuống, nhất thời chưa ngủ ngay được, Từ Hành Chi bèn xoay người, đổi sang tư thế nằm nghiêng: “Này, các ngươi biết chưa? Gần đây ta mới có thêm mấy sư đệ.”
Ôn Tuyết Trần nói: “Đúng lúc ta cũng muốn hỏi chuyện này. Nhị sư đệ của ngươi có xuất thân thế nào vậy? Không phải thế gia, không phải danh môn, có tư cách gì mà nhảy một phát lên vị trí đồ đệ đứng thứ hai trong Phong Lăng vậy hả?”
“Ngươi nói Tiểu Hắc ấy à?” Từ Hành Chi thoải mái trở mình, không quan tâm lắm: “Xuất thân không kém ta mấy đâu. Sư phụ thích đi khắp nơi nhặt đồ đệ, không phải ta cũng được nhặt về đó sao?”
Chu Bắc Nam nằm bên trái Từ Hành Chi dùng cánh tay đẩy cậu ra: “Ngươi nóng muốn chết luôn đấy, nhích sang bên kia, đừng sán vào ta.”
Ôn Tuyết Trần nằm bên phải cậu tỏ thái độ ngay tức khắc: “Ngươi đừng qua đây.”
Từ Hành Chi mặt dày gác chân dài lên đầu gối Chu Bắc Nam: “Thân thể Tuyết Trần không tốt, bảo ta chen hắn, ngươi không biết ngại à?”
Chu Bắc Nam: “Không bỏ chân xuống thì ta bẻ gãy chân ngươi.”
Thấy hai người họ sắp lao vào đánh nhau, Khúc Trì nằm ở cuối giường lên tiếng khuyên can: “Được rồi, đừng làm ồn nữa.”
Ôn Tuyết Trần cũng nói: “Muốn cãi nhau thì ra ngoài mà cãi. Đừng làm hỏng giường của ta.”
Từ Hành Chi và Chu Bắc nghe vậy thì lặng lẽ ngừng chiến.
Một lát sau, bốn người lại trò chuyện giết thời gian.
Khúc Trì hỏi: “Hành Chi này, con tin ma đạo ở chỗ ngươi có quen không?”
“Cũng không tệ lắm.” Nhắc đến Cửu Chi Đăng, Từ Hành Chi lại thấy hào hứng: “Tiểu Đăng là một đứa trẻ rất tốt, lễ phép lại có chừng mực, tính cách trầm lặng, mỗi tội hơi ít nói. Lúc hắn được Nhập Tái đưa tới gầy trơ cả xương, nhìn cái là biết ở ma đạo bị người ta bắt nạt quen rồi. Mấy ngày qua chăm tốt, trên người đã có chút da chút thịt rồi.”
Nói đến đây, Từ Hành Chi khá là đắc ý.
Ôn Tuyết Trần không nói gì.
Dưới góc nhìn của hắn, người không thuộc chính đạo không đáng cho hắn để ý tìm hiểu và quan tâm.
“Cứ nhìn mấy sư đệ ấy mãi, ngươi không bị bệnh đấy chứ?” Từ trước tới nay Chu Bắc Nam luôn không ưa vẻ khoái chí hả hê của Từ Hành Chi, đả kích cậu: “Lần trước tới Phong Lăng Sơn gửi thư tay của cha ta cho Thanh Tĩnh Quân, ta nhìn thấy một cô gái, vẻ ngoài xinh đẹp hàng đầu, trông có vẻ mặc trang phục của đệ tử cấp cao, sao chưa bao giờ nghe ngươi nhắc đến?”
Khúc Trì cười trêu: “Có thể lọt vào mắt Bắc Nam, chắc chắn là người đẹp thật.”
Từ Hành Chi suy nghĩ chốc lát: “Ồ, ý ngươi là Nguyên Như Trú – Nguyên sư muội ấy hả? Như Trú là đồ đệ mà sư thúc mới thu nhận, thiên phú kiếm tu thuộc nhóm đầu, là hạt giống tốt đáng để rèn giũa, sư thúc rất quý muội ấy.”
Mặc dù thiếu niên Chu Bắc Nam không ưa tác phong của Từ Hành Chi một trăm phần trăm nhưng cậu ta không thể không thừa nhận Từ Hành Chi là người vô cùng xuất sắc trong thế hệ này. Lần trước cậu ta nhìn thấy Nguyên Như Trú, chỉ nhìn thoáng qua thôi đã cảm thấy cô gái ấy có vẻ ngoài rất xứng đôi với Từ Hành Chi, bây giờ nhắc đến rồi, cậu ta bèn thử thăm dò ý của Từ Hành Chi, xem cậu có suy nghĩ mơ mộng gì với sư muội này không, cậu ta cũng tiện mai mối, ai ngờ cậu tán gẫu về một đống chuyện tu đạo, chẳng nhắc gì tới chuyện nam nữ.
Chu Bắc Nam ngạc nhiên nói: “Hết rồi à?”
“Hết rồi.” Từ Hành Chi tự nhiên nói: “Ta và muội ấy chưa nói với nhau được hai câu nữa.”
Chu Bắc Nam: “…”
Từ Hành Chi lại nói tiếp: “Nam nữ khác biệt, ta rảnh hơi chạy tới chỗ người ta làm gì? Tình ngay lý gian cũng là phiền phức, thà ở cùng con trai còn thoải mái vui vẻ hơn.”
Chu Bắc Nam nghe lời này cứ thấy lạ lạ thế nào.
Ôn Tuyết Trần nghe không nổi nữa, cau mày nói: “Bàn luận về con gái người ta sau lưng là điều đúng đắn à?”
Hắn không lên tiếng thì thôi, vừa nói một câu đã khiến cái nết bỉ ổi của Từ Hành Chi nổi lên. Cậu quay mặt sang phía Ôn Tuyết Trần trong bóng tối, cười hì hì: “Được, vậy chúng ta nói tới Tiểu Huyền Nhi.”
Nhắc đến thiếu nữ luôn cười hiền dịu ấy, Ôn Tuyết Trần xao động, trái tim trong lồng ngực đập thịch lên chẳng chịu khống chế, có vẻ cực kỳ vang dội trong đêm tối.
Để che giấu sự khác thường ấy, Ôn Tuyết Trần hơi to tiếng hơn: “Chuyện này liên quan gì đến muội ấy?”
Từ Hành Chi sáp tới hỏi với vẻ hứng thú: “Này, nghe coi, tim Tuyết Trần như con thỏ ấy, nhảy nhót tưng bừng, sôi nổi quá.”
Mặt Ôn Tuyết Trần hơi ửng đỏ, nghiến răng quát: “Từ Hành Chi!”
Chu Bắc Nam không định bắt tay với Từ Hành Chi cười nhạo Ôn Tuyết Trần: “Tên họ Từ kia, ngươi không biết người ngươi nóng hả? Bỏ chân xuống cho ta! Ta vặn gãy thật đấy nhá!”
Từ Hành Chi cợt nhả xoay người sang, một chân đạp lên đầu gối Chu Bắc Nam chẳng chút kiêng dè, chân còn lại gác lên bụng cậu ta: “Ta không bỏ ra đấy.”
Cậu vừa xoay người như thế xong thì nửa người trên dán sát vào người Ôn Tuyết Trần.
Ôn Tuyết Trần đẩy cậu: “Ngươi xoay sang bên kia đi.”
Khúc Trì không biết phải làm sao: “Các ngươi đừng cãi nhau nữa. Nếu không có chỗ ngủ thì ta nhường cho các ngươi.”
Nhưng mà Chu Bắc Nam đã bị Từ Hành Chi chọc cho nổi quạu, nắm chặt lấy cẳng chân trái sinh sự của cậu, giơ lên rồi bẻ ra, ngay sau đó nghiêng người cưỡi trên người cậu, ép chân cậu xuống thật mạnh.
Từ Hành Chi bị đau, xin tha ngay lập tức: “Đau, đau, chân, ối… Đừng bẻ, đừng bẻ, Chu công tử, Chu sư huynh!”
Ôn Tuyết Trần bị chen lấn không có chỗ nằm, đành phải vươn hai tay ra đẩy hai người đang quấn lấy nhau ra: “Muốn đánh thì xuống dưới mà đánh.”
Đôi chân của Từ Hành Chi suýt thì bị bẻ thành chữ Nhất, dù sau cậu cũng mang xương cốt của con trai, không mềm dẻo như con gái, lúc này bị đau cực kỳ, không kịp nhớ ra mình vừa cười nhạo Ôn Tuyết Trần, bám cánh tay hắn cầu cứu: “Tuyết Trần huynh! Tuyết Trần huynh! Cứu mạng!”
Thấy Ôn Tuyết Trần cũng bị quấn vào cục diện rối loạn, Khúc Trì nhoài người lên, lướt qua người Ôn Tuyết Trần, cố gắng hết sức tách Chu Bắc Nam và Từ Hành Chi vật lộn quấn vào nhau ra.
Cái giường to lắc lư như đi trên biển, tròng trành nhấp nhô như thuyền, cót két rầm rầm, bốn chân giường vốn bị trọng lượng của bốn thiếu niên ép cho chìa ra bốn hướng rồi, bây giờ lại bị tai bay vạ gió, cuối cùng không chịu nổi sức ép, cùng nhau gãy tan.
Bốn người cùng đập xuống đất theo ván giường. Cảm giác rơi xuống trong tích tắc khiến cả bốn người đều ngớ ra.
Khúc Trì bò dậy đầu tiên: “Ta không sao. Các ngươi có sao không?”
Chu Bắc Nam vẫn cưỡi trên người Từ Hành Chi, lúc rơi xuống không cẩn thận cắn vào đầu lưỡi, lúc này bèn buông lỏng bàn tay khống chế Từ Hành Chi ra, che miệng lại nước mắt rưng rưng, cậy mạnh: “Không, không sao…”
Từ Hành Chi nằm ở trên ván giường nhe răng trợn mắt sờ đầu mình.
Lúc ngã xuống cậu bị đập đầu vào mép giường, giờ vươn tay lên sờ, quả nhiên là sưng một cục u nóng hầm hập.
Nhưng buồn cười hơn là đau đớn, cậu vừa đau kêu la vừa cười khúc khích.
“Có gì đáng cười?” Ôn Tuyết Trần bực mình bò dậy: “Biết trước thế này thì không nên gọi hai người các ngươi tới! Qua điện của khách ngủ cho ta!”
Từ Hành Chi bò dậy khỏi giường, bắp đùi bị Chu Bắc Nam bẻ ngang ra vẫn còn âm ỉ đau. Cậu che nơi đau nhức, loạng choạng lùi lại mấy bước, chống vào cái giường chia năm xẻ bảy: “Đừng mà, chúng ta qua điện của khách ngủ, thế ngươi ngủ ở đâu?”
Ôn Tuyết Trần không dao động vì lương tâm đến muộn của cậu, ngồi xếp bằng trên cái giường bị sụp: “Không cần ngươi lo.”
Từ Hành Chi ngại ngùng xoa gáy: “Tuyết Trần à, đêm nay ngươi qua điện của khách ngủ tạm với bọn ta một hôm đi. Ngày mai ta làm cái giường mới cho ngươi.”
Từ Hành Chi không nói điêu, cái xe lăn trong phòng là tác phẩm của cậu, thứ tinh xảo như thế cậu còn làm được, chắc chắn cũng biết sửa giường.
Thấy Từ Hành Chi có lòng hối cải, Ôn Tuyết Trần không truy cứu thêm, để mặc cậu bế mình lên xe lăn rồi đẩy ra ngoài.
Ầm ĩ một lúc, cơn buồn ngủ trước đó đều bị xua tan. Bốn người ra gian điện chính, đúng lúc ánh sao trên trời rực rỡ sáng chói, Từ Hành Chi chợt nảy ra một ý: “Này, Tuyết Trần, đã bao lâu rồi ngươi không lên chỗ cao ngắm sao?”
Ôn Tuyết Trần cảnh giác nói: “Ngươi muốn làm gì?”
Một lúc lâu sau, Ôn Tuyết Trần đã được Từ Hành Chi bế lên ngồi vững ở góc nào đó trên nóc nhà. Trong tay hắn đã đổi thành gậy gỗ lim để chống đỡ cơ thể, qua trận ồn ào ban nãy, Từ Hành Chi chừa rồi, không chọc ghẹo người này người kia nữa, xoa đùi ngồi sát vào Khúc Trì, Khúc Trì đỡ cậu rồi quay sang hỏi vết thương ở lưỡi của Chu Bắc Nam có nặng lắm không.
Lúc đó gió mát vừa phải, ánh sao vừa đẹp, bốn người người ngồi người nằm trên nóc nhà, hiếm khi tâm tính nóng nảy của thiếu niên được xoa dịu, ngắm sao trời, thỉnh thoảng nói chuyện phiếm, khá là hòa hợp.
Mà cả bốn người đều không thấy Nhạc Vô Trần đang lẳng lặng đứng ở ngoài điện, nhìn họ ở trên nóc nhà.
Vì men say ngấm vào, trên mặt Nhạc Vô Trần hơi phớt hồng, đôi môi hé mở như muốn gọi Hành Chi nhưng lại nuốt xuống, chỉ mỉm cười nhìn mấy người trên đó.
Như thế cũng tốt.
Nhạc Vô Trần không định nhúng tay vào nhiều chuyện hơn.
Y lo lắng, nếu mình can thiệp vào quá nhiều chuyện thì nó sẽ phản ứng ngược, khiến thế giới vốn bình thường trở nên rối loạn, vì thế y yên tâm canh giữ trong Phong Lăng Sơn, uống rượu, luyện kiếm, bế quan với Từ Hành Chi, ngoại trừ phải dành chút tâm tư tập trung dạy dỗ Tạp La, tất cả mọi chuyện đều không khác biệt nhiều với kiếp trước.
Lúc Tạp La chép được hơn một nửa số sách trên giá, cuộc thi Thiên bảng năm năm một lần lại đến.
Giống như kiếp trước, Từ Hành Chi chỉ kém hơn mấy chiêu mà thua Khúc Trì. Nhưng tiên binh Bút nhàn rỗi do chính tay cậu chế tạo, biến đổi muôn hình vạn trạng, quỷ thần khó lường, thành công khiến cả bốn môn phái đều ngạc nhiên, các vị quân trưởng bàn bạc sôi nổi.
Phù Diêu Quân đi đến bên cạnh Nhạc Vô Trần: “Tiên binh này do ngài hướng dẫn làm à?”
Nhạc Vô Trần xoa bầu rượu ngọc, tự hào nói: “Không, do đồ đệ ta tự làm.”
Tạp La đứng hầu bên cạnh nghe vậy thì thầm cười khẩy, nhìn Từ Hành Chi đang phe phẩy cái quạt nói cười ở dưới đài với vẻ khinh thường.
Từ xưa đến giờ non nước ở Phong Lăng luôn tốt cho con người, dù đệ tử ngoại môn phụ trách quét tước cũng được đất đai nơi này nuôi dưỡng có được làn da trắng trẻo mịn màng. Nhưng Tạp La trời sinh da đã đen, không thể cứu vãn, lại mặc bộ đồ trắng, trông hệt như con cừu đen lẫn trong đàn cừu, vì thế hắn ta bị các đệ tử lén lút cười nhạo không ít.
Nhạc Vô Trần muốn tránh phiền phức nên dặn phường làm quần áo nhuộm quần áo của Tạp La thành màu đen, như thế hắn ta sẽ thoải mái hơn, cũng tránh các đệ tử có tranh chấp không cần thiết với Tạp La.
Đương nhiên các đệ tử không biết suy nghĩ ấy của Nhạc Vô Trần, vì thế bàn tán sôi nổi, nói rằng quả nhiên sư phụ thiên vị nhị sư huynh lai lịch không rõ này hơn, ngay cả trang phục được truyền từ đời này qua đời khác của Phong Lăng cũng có thể thay đổi vì hắn ta.
Tạp La nghe thấy mấy lời tán gẫu đó, không phản bác, chỉ cười khẩy trong lòng.
Rõ ràng Nhạc Vô Trần thiên vị tên họ Từ kia nhất, có bao giờ thật sự để tâm đến mình đâu?
Nghĩ tới chuyện này, Tạp La lại thấy bực bội nóng nảy.
Rõ ràng mình coi Nhạc Vô Trần là kẻ thù hàng đầu, thế mà trong lòng trong mắt Nhạc Vô Trần, người đứng đầu và duy nhất lại là Từ Hành Chi.
Tạp La không cho phép.
Hắn ta coi trọng Nhạc Vô Trần như thế thì trong mắt Nhạc Vô Trần cũng chỉ có thể chứa một mình hắn ta!
Bàn tay của hắn ta siết chặt lại trong tay áo, nghĩ rằng chờ tới khi mình cầm kiếm được, tu luyện kiếm pháp Phong Lăng, hắn ta sẽ để Nhạc Vô Trần thấy Từ Hành Chi mà y coi như vật báu chẳng là cái thá gì dưới kiếm hắn ta!
Nhạc Vô Trần vờ như không biết suy nghĩ của hắn ta, lại như không hề quan tâm hắn ta có suy tính gì, chỉ một mực nhìn Từ Hành Chi ngồi bên dưới mà cười mỉm.
Năm sau, buổi tế lễ Đông Hoàng hai năm một lần được tổ chức.
Nhạc Vô Trần đã chuẩn bị sẵn trong lòng rồi. Vì thế, lúc Từ Hành Chi dẫn một đứa trẻ xinh xắn tò mò nhìn xung quanh tới trước mặt mình, y chẳng hề ngạc nhiên chút nào, ôn hòa hỏi thử: “Đứa trẻ này là ai?”
Từ Hành Chi đối đáp trôi chảy: “Thưa sư phụ, đây là đứa nhỏ con nhặt được trong núi, tên là Trọng Quang. Con thấy hắn không cha không mẹ, thật sự rất đáng thương, lại có linh căn, đáng để dạy dỗ, con bèn dẫn hắn về, muốn hỏi sư phụ có thể nhận Trọng Quang vào núi, cho hắn một chỗ đặt chân không?”
Trọng Quang không sợ người, can đảm đánh giá Nhạc Vô Trần một lượt rồi quay đầu hỏi Từ Hành Chi: “Từ sư huynh, có phải trở thành đệ tử của vị tiên nhân này là ta có thể làm sư đệ của huynh rồi không?”
Từ Hành Chi bật cười, không đáp lời mà đưa mắt nhìn sang Nhạc Vô Trần: “Sư phụ?”
Nhìn gương mặt xinh đẹp môi hồng răng trắng nhưng bướng bỉnh khó dạy của Trọng Quang, trái tim Nhạc Vô Trần dần mềm nhũn xuống.
Y nghĩ tới vòng ánh sáng treo giữa Man Hoang, nghĩ tới thanh niên cố chấp trước kia chịu vết thương nhỏ xíu thôi cũng làm nũng gào khóc nhưng lại sống chết không chịu nói nguyên nhân bản thân phải chịu nhân quả nên da cháy thịt nát cho Từ Hành Chi biết.
Nhạc Vô Trần nhỏ nhẹ nói: “Trọng Quang… Trọng Quang. Tên rất hay. Có họ chưa?”
“Trọng Quang” là cái tên mà Từ Hành Chi đặt cho hắn, vẫn chưa nghĩ ra họ, nhưng nghe Nhạc Vô Trần hỏi thế, Từ Hành Chi biết ngay sư phụ mình đồng ý cho hắn vào núi, cậu vội vàng kéo Trọng Quang, ra hiệu hắn quỳ xuống.
Trọng Quang bĩu môi, không bằng lòng quỳ trước một người xa lạ cho lắm, nhưng nghĩ sau này có thể sống chung với người thú vị này lâu hơn, hắn cân nhắc chốc lát, cảm thấy vẫn hời, bèn vén áo quỳ xuống, ngoan ngoãn nói: “Thưa sư phụ, con chưa có họ.”
Ánh mắt Nhạc Vô Trần toát ra sự dịu dàng, nói: “Ta ban cho ngươi một cái họ, họ Mạnh nhé. Ngươi thấy thế nào?
Kiếp trước, trước khi chết Nhạc Vô Trần đã lờ mờ đoán ra mối quan hệ thân thiết của Từ Hành Chi và Mạnh Trọng Quang nhưng không biết hai người họ bắt đầu thân thiết như thế từ bao giờ.
Vì thế sau khi Mạnh Trọng Quang tới Phong Lăng, Nhạc Vô Trần vẫn luôn chú ý tới nhất cử nhất động của hai người họ.
Sáu năm đủ để Nhạc Vô Trần thấy rõ rất nhiều chuyện.
Ban đầu Mạnh Trọng Quang chỉ coi Từ Hành Chi là trò chơi thú vị.
Hắn là thiên yêu, từ lâu đã được thiên nhiên nuôi dưỡng rồi có được linh thức, sau khi hóa thành hình người thì được một thợ săn nuôi dưỡng đến bốn tuổi.
Thợ săn nhặt hắn về cũng không biết chăm sóc dạy dỗ trẻ con gì cả, chỉ biết sáng trưa nên ăn cơm, tối nên đi ngủ, tới khi đứa bé cao đến eo mới có thể thừa kế gia sản ít ỏi của hắn ta, một cái dao bổ củi, một bộ cung tên, thêm căn nhà cỏ tranh lụp xụp. Nhưng khi Mạnh Trọng Quang cao bằng cây cung thì thợ săn bị ngã chết ở giữa núi.
Sau đó, Mạnh Trọng Quang bắt đầu một thân một mình dạo chơi thiên hạ.
Mạnh Trọng Quang xuống núi không biết xấu hổ, không biết sợ hãi, không biết thiện ác, là một hỗn thế ma vương chưa khai hóa, hổ báo chim ó gặp hắn là trốn, may mà có vẻ ngoài trắng trẻo đáng yêu, con người muốn gần gũi với hắn, cho hắn đồ ăn thức uống, vì thế hắn sống rất thoải mái, không bị lạnh bị đói.
Lêu lổng ở trần gian mấy năm, hắn gặp vô số gương mặt tầm thường, người thú vị lại cực ít. Vì thế khi Từ Hành Chi xuất hiện, đối với hắn mà nói cậu đúng là báu vật đáng để tìm hiểu.
Sau khi vào núi, hai người chưa từng làm hành vi long trời lở đất gì, chỉ có chậm rãi từng chút một, yên ổn theo thời gian.
Mỗi ngày Mạnh Trọng Quang đều đi hái hoa quả cho Từ Hành Chi, chuyên chọn quả xanh vàng, chưa chín hẳn, rửa sạch rồi bưng cho Từ Hành Chi ăn, sau đó ngồi xuống cạnh cậu, vô liêm sỉ dán chặt vào cậu, nhìn cậu tu luyện, múa kiếm, luyện khí, uống rượu.
Nhìn mãi ngắm mãi, người ấy từ trong mắt chui vào trong trong trái tim hắn.
Từ Hành Chi khen hắn, dạy hắn, chỉ bảo hắn, cười to, trầm ngâm, thở dài, đó đều là phong cảnh với hắn.
Vì Từ Hành Chi, hắn bỏ răng nanh, giấu móng vuốt sắc đi, tự nhốt con thú hoang là bản thân vào trong lồng, cũng học cách đối xử tốt với Từ Hành Chi.
Một người cả đời rất khó chỉ tốt với một người. Nhưng không biết là bất hạnh hay may mắn, trái tim Mạnh Trọng Quang trời sinh nhỏ hẹp, vốn không đủ để chứa nhiều người, hắn lại chủ động đuổi hết mọi người đi, vì thế, chừa lại cho Từ Hành Chi không nhiều không ít, vừa đủ một trái tim nguyên vẹn.
Có lẽ trời sinh thiếu mất dây thần kinh liên quan nên Từ Hành Chi không nhiệt tình với chuyện yêu đương lắm, nhưng bên cạnh có một người bất chấp mọi thứ, mặt dày mày dạn đối tốt với cậu, đương nhiên cậu cũng muốn chân thành đáp lại.
Đáp lại, rồi đáp lại mãi, người kia vô thức bước vào trái tim cậu, ở lại đó, không đi nữa.
Khi cậu nhận được linh thạch sư phụ cho, cậu chỉ muốn để dành mấy viên tốt nhất cho Mạnh Trọng Quang, khi Mạnh Trọng Quang ăn được món gì đó mà khen mấy câu mà khi đã qua rất nhiều năm rồi cậu lại nhớ được tên của món ăn đó, đó là lúc cậu yêu thật rồi.
Nhạc Vô Trần nhìn thấy hết tất cả mọi chuyện của hai người họ, chỉ cảm thấy trong lòng được xoa dịu.
Không ai phải chịu những gian khổ kia cả.
Kiếp này, y muốn cho Từ Hành Chi một cuộc sống không sóng gió.
Nhưng mà biến cố vẫn xảy ra.
Nhiều năm trôi qua, có rất nhiều chi tiết nhỏ mà Nhạc Vô Trần không nhớ rõ được.
Mạnh Trọng Quang vào môn phái sáu năm, một nhóm quỷ tu của Minh Nha Quốc ngóc đầu dậy, gây hại khắp nơi, Từ Hành Chi tuân mệnh đi tiêu diệt chúng, trong hai tháng phải đi ra ngoài mấy lần.
Mỗi lần trước khi đi, Nhạc Vô Trần đều dặn dò đủ điều, bảo Từ Hành Chi phải cẩn thận quỷ tu dùng thủ đoạn hèn hạ, lần nào Từ Hành Chi cũng cười hì hì đồng ý luôn miệng, Nhạc Vô Trần nghĩ không cần lo gì hết, trấn giữ ở Phong Lăng Sơn, tập trung dạy dỗ La Thập Tam.
Qua mấy năm, Tạp La đã trở thành thiếu niên với vẻ phong lưu trời cho. Thi thư trong bụng vô hình trung đã rèn giũa cho hắn ta có thêm rất nhiều nhuệ khí, nhưng sự hung ác trong xương tủy hắn ta đã ăn sâu bén rễ, lông mày rậm nhếch lên, mắt phượng xếch lên, đúng kiểu vừa chính vừa tà.
Hắn ta chép đi chép lại sách trên giá mấy năm trời, chép cho tay đầy vết chai, điều này cũng khiến khi hắn ta được cho phép cầm kiếm một lần nữa, cả người đều thấy không ổn.
Một năm trước, Tạp La đã lấy được bí quyết tâm pháp từ chỗ Nhạc Vô Trần. Nhưng hắn ta quá vội vàng, chỉ muốn mau chóng thành công, không biết rằng công pháp của chính đạo phải tĩnh tâm nghiền ngẫm mới tu luyện được. Huống hồ pháp thuật ma đạo hồi trước hắn ta dùng quen hoàn toàn tương phản với tâm pháp này, vì thế mà tốc độ tu hành của Tạp La rất chậm, hệt như rùa bò, cầm kiếm làm chút trò mèo còn được chứ nếu đánh chém với đao kiếm thật thì Từ Hành Chi dùng quạt đứng im tại chỗ cũng có thể đánh cho hắn ta răng rơi đầy đất.
Hưởng vị trí đệ tử đứng thứ hai, được sư phụ chỉ dạy nhưng hắn ta vẫn không đạt được thành tựu gì, vào núi nhiều năm như thế rồi mà ngay cả Luyện khí cấp ba cũng chưa đột phá được, ngay cả Mạnh Trọng Quang được công nhận là tên vô dụng chỉ được mã ngoài xinh đẹp cũng xuất sắc hơn hắn ta.
Tạp La nghe thấy hết mấy lời bàn tán của đệ tử Phong Lăng, vừa sốt ruột vừa cáu giận, lửa giận trong lòng bốc lên, tức tới mức hắn ta không ngủ được, nửa đêm lặng lẽ bò dậy ngồi thiền, luyện kiếm, ngày đêm không ngừng nhưng hiệu quả vẫn rất thấp.
Ngày hôm đó, hắn ta đang luyện kiếm trước điện Thanh Trúc, nhìn thấy Từ Hành Chi ra ngoài làm nhiệm vụ đang đi từ phía ngoài tới, có cả Nguyên Như Trú, Cửu Chi Đăng và Mạnh Trọng Quang đi sau cậu.
Tạp La cau mày.
Hắn ta nhận ra ngoại trừ Nguyên Như Trú vẻ mặt như thường, mấy người kia đều mang sắc mặt không tốt cho lắm, ngũ sư đệ xinh đẹp có vẻ khác thường nhất, trông như vừa mới khóc, khóe mắt hơi đỏ, khiến người ta trông mà thương.
Từ Hành Chi phe phẩy quạt đi đến gần, hỏi thăm Tạp La: “La sư đệ luyện kiếm đấy à?”
Tạp La không đáp lời, chỉ nhìn chằm chằm Từ Hành Chi.
Từ Hành Chi quanh năm luôn ở vị trí Bảng Nhãn cao chót vót trong cuốn sổ chết chóc của Tạp La, chỉ khi Quảng Phủ Quân ép hắn ta chép sách thì hắn ta mới không cam lòng cho cậu xuống vị trí Thám Hoa, vì thế với thay đổi nhỏ nhặt của Từ Hành Chi, hắn ta có thể quan sát và nhận ra được nhiều hơn người khác một chút.
Tạp La phát hiện ra môi Từ Hành Chi hơi đỏ, nhưng nhìn kỹ lại thì thấy màu máu đỏ ở khóe miệng đã mất hết, cứ như trước khi vào điện đã cố gắng mím môi làm cho khí sắc tạm thời trông bình thường một chút.
Chào hỏi hắn ta xong, Từ Hành Chi định bước vào trong điện, ai ngờ Tạp La tiến lên một bước, giơ ngang kiếm chặn đường Từ Hành Chi.
Từ Hành Chi nhìn lưỡi kiếm chỉ cách ngực mình ba tấc, mắt cười cong cong, thử dùng quạt đẩy kiếm của hắn ta ra: “La sư đệ, sư huynh vội đi tìm sư phụ để báo cáo việc trừ quỷ, nhường đường được không? Hôm khác ta luyện kiếm với ngươi sau nhé.”
Tạp La đứng im.
Hình như Từ Hành Chi bị thương.
Nếu để mặc cậu đi đến trước mặt Nhạc Vô Trần, bị Nhạc Vô Trần nhận ra, ắt sẽ lại là cảnh gia đình hạnh phúc cha từ con hiếu, Tạp La mới nghĩ tới cảnh đó thì ngọn lửa vô danh bỗng bùng cháy hừng hực, thiêu đốt con ngươi hắn ta đỏ bừng lên.
Hắn ta ra lệnh chẳng chút khách sáo: “Về đi.”
Nghe Tạp La nói lời bất kính với Từ Hành Chi như thế, Cửu Chi Đăng và Mạnh Trọng Quang đều đanh mặt, nhảy lên trước, gần như đồng thời vung kiếm ra đứng trước Từ Hành Chi bảo vệ cậu, phản ứng dữ dội ấy khiến Nguyên Như Trú giật nảy mình: “Các ngươi…”
Tạp La nhìn chằm chằm thanh kiếm của Cửu Chi Đăng ra khỏi vỏ, cười khẩy một tiếng.
Hắn ta nói: “Sư phụ đang bàn công việc với Quảng Phủ Quân ở trong đó. Ta sẽ nhắn giúp chuyện Từ sư huynh từng đến đây.”
Chỉ qua một lúc, môi Từ Hành Chi đã tái hơn.
Trúng ấn rắn cạp nong, Từ Hành Chi đang cảm thấy xương lạnh và đau không chịu nổi, chỉ có thể dùng linh lực gắng gượng áp chế, đối với cậu của lúc này mà nói, chỉ cần chịu phải xung kích linh lực dù rất nhỏ thôi cũng khiến cậu khó chịu tới mức cả người run lên.
Từ Hành Chi cũng không muốn gặp sư phụ khiến y lo lắng, vì thế cậu mở miệng nói: “Vậy thì làm phiền…”
Đột nhiên cậu bị cơn lạnh xộc lên đầu làm cho run lên, nửa câu sau cũng bị nuốt xuống.
Từ Hành Chi tự biết tình hình không ổn, không muốn dây dưa nữa, quay người định đi, vào đúng lúc này đầu gối lại bị hàn độc phát tác gặm cắn, hai chân mềm nhũn, vô thức ngã nhoài lên trước.
Mạnh Trọng Quang hoảng hốt hô lên rồi ôm lấy eo Từ Hành Chi trước Cửu Chi Đăng, luôn miệng gọi: “Sư huynh!”
Cửu Chi Đăng cũng tái mét mặt.
Nguyên Như Trú nhìn ra được một vài manh mối, sải bước tới bên cạnh Từ Hành Chi: “Sư huynh, huynh không khỏe sao?”
Từ Hành Chi đang định lắc đầu phủ nhận, dỗ dành Nguyên sư muội, cửa điện Thanh Trúc bỗng mở toang ra, Quảng Phủ Quân bước ra từ bên trong, thấy mấy người họ không thu kiếm lại, mũi kiếm đối đầu với nhau thì trưng điệu bộ của tiểu sư thúc ra quát: “Làm gì thế hả? Điện Thanh Trúc là nơi để các ngươi giở thói ngang ngược à?”
Nhưng hắn nhanh chóng thấy được Từ Hành Chi đứng không vững, nhíu mày nói: “Hành Chi, làm sao thế?”
Nhạc Vô Trần đi ra sau Quảng Phủ Quân, thấy Từ Hành Chi nằm nhoài trên vai Mạnh Trọng Quang thở dốc, trông cực kỳ đau đớn, y bỗng tái mặt, giọng điệu trước giờ luôn bình thản ôn hòa bỗng cao lên mấy tông: “Hành Chi!”
Y không dám làm lộ thiên cơ, đành nhắc nhở Từ Hành Chi phải cực kỳ cẩn thận, vì sao Hành Chi vẫn trúng ấn rắn cạp nong?
Nhạc Vô Trần bước nhanh lên trước, dùng một tay ấn vai Từ Hành Chi, cầm cổ tay cậu lên, cảm nhận được linh lực cuộn trào hỗn loạn trong người cậu, xác nhận trong người cậu có độc rắn cạp nong thật, y không nói nhiều lời nhảm nhí, giành lấy Từ Hành Chi khỏi Mạnh Trọng Quang, bế ngang cậu lên.
“Sư…”
Nhạc Vô Trần nhón chân, hóa thành cơn gió, bay về phía điện của Từ Hành Chi.
Mạnh Trọng Quang ngây ra thoáng chốc rồi nhanh chóng nhấc chân đuổi theo, chỉ hận bình thường giả bộ yếu ớt quá mức, không thể thoải mái dùng linh lực đuổi theo chăm sóc sư huynh được.
Cửu Chi Đăng im lặng theo sau Mạnh Trọng Quang, cùng hắn chạy về điện của Từ Hành Chi.
Từ Hành Chi được Nhạc Vô Trần đặt lên giường như đứa trẻ con, dù cậu da mặt dày vẫn thấy hơi xấu hổ.
Cậu từng tuổi này rồi, được sư phụ bế lên ngay trước mặt một đám sư đệ, sư muội…
Từ Hành Chi ngồi dậy khỏi giường: “Sư phụ…”
“Suỵt.” Nhạc Vô Trần ngắt lời cậu, đỡ lấy vai dịu dàng đặt cậu nằm xuống: “Bị thương thì chớ cử động. Để sư phụ xem vết thương.”
Từ Hành Chi cắn răng cởi áo ngoài và áo trong bị mồ hôi thấm ướt một nửa xuống, quay lưng qua, để lộ ra đường nét eo lưng rắn rỏi, ở trên xương cùng tầm một ngón tay, có một vết ấn tròn đỏ tươi in trên da thịt, xung quanh ấn tròn có hàn độc màu tím nhạt hình cây kim lan ra, vết sưng tấy gồ lên bò ra gần nửa lưng cậu, trông rất khủng bố.
Không biết sao, Nhạc Vô Trần nhìn thấy vết thương ấy thì tay run lên, trái tim thắt chặt lại.
Y dùng ngón tay xoa vuốt vết thương của Từ Hành Chi khiến cậu run rẩy, y nhỏ giọng hỏi thử: “Đau à?”
Từ Hành Chi cắn răng cười: “Sư phụ, ngứa lắm, người đừng chạm vào.”
“Sao lại bị thương?”
Y nhận được câu trả lời không khác gì mấy với tưởng tượng: “Con không cẩn thận, trúng chiêu của quỷ tu.”
Nhạc Vô Trần than thở: “Có đi được không? Ta với con tới suối nước nóng một chuyến, ta giải độc cho con.”
Kiếp trước, khi Hành Chi trừ quỷ về núi, đúng lúc y uống ít rượu, không nhận ra sự khác thường của cậu, sau đó Hành Chi lại che giấu quá tốt, y chẳng hề hay biết cậu từng bị thương nặng thế này.
Điều khiến Nhạc Vô Trần hoảng sợ hơn là y đã tốn hết công sức để Hành Chi tránh né nguy hiểm, vậy mà Hành Chi vẫn bị thương.
Vậy thì, rốt cuộc y có thể dẫn Từ Hành Chi bước ra khỏi số phận của cậu không? Sống lại một đời, y có thể thực hiện lời hứa bảo vệ Hành Chi được không đây?
Quá trình khử độc kéo dài chừng một canh giờ.
Sau một canh giờ, Từ Hành Chi mềm nhũn không có sức được Mạnh Trọng Quang chờ ở ngoài bể tắm phủ thêm áo cho, dìu lên giường nghỉ ngơi. Sắc mặt của người thanh niên đã tốt hơn nhiều rồi nhưng tay chân vẫn lạnh như băng. Mạnh Trọng Quang làm khô hết nước còn sót lại trên tóc Từ Hành Chi, nhớ ra chỉ cần chân ấm là cơ thể có thể ấm lên, hắn bèn vén áo lên, nhét hai chân cậu vào ngực mình.
Đây là lần đầu tiên Từ Hành Chi được nhận đãi ngộ long trọng như thế, muốn cười nhưng cũng thấy cảm động và xấu hổ, cậu rụt chân về: “Này, đừng đừng đừng, ngứa lắm.”
“Đừng nhúc nhích.”
Mạnh Trọng Quang hiếm khi dùng giọng điệu ra lệnh để nói chuyện với Từ Hành Chi, khi hắn nhận ra điều không đúng thì mềm giọng xuống ngay, nắm chặt mắt cá chân Từ Hành Chi, nhỏ nhẹ nói: “Sư huynh cứ dựa vào ta là được. Ta ấm lắm.”
Quảng Phủ Quân luôn chờ trong điện đặt hai lọ đan dược lên bàn, đỡ Nhạc Vô Trần vừa đi ra khỏi bể, nhỏ giọng hỏi: “Tình hình thế nào?”
Cả bộ đồ trắng của Nhạc Vô Trần ướt đẫm, dán sát lên da thịt, giọt nước lăn xuống từ cần cổ thanh tú sạch sẽ của y, y cũng không có tâm trạng để lau: “Không tốt lắm.”
Loại độc này thật sự quá ngoan cố, Nhạc Vô Trần đã điều động toàn bộ tu vi cũng chỉ đánh tan được sáu đến bảy phần hàn độc, e là mầm bệnh sợ lạnh của Từ Hành Chi vẫn bị gieo xuống.
Mặc dù mức độ trúng độc của y không nặng như kiếp trước nhưng sự kiện ngoài ý muốn này khiến Nhạc Vô Trần đau xót cực kỳ, khóe mắt vốn luôn ôn hòa rủ xuống lại càng rủ xuống thấp hơn.
Thấy Nhạc Vô Trần như thế, Quảng Phủ Quân tái mặt: “Nặng lắm sao?”
Từ khi biết sách Thế Giới trong người Từ Hành Chi không có tác dụng thực tế, Nhạc Khê Vân dần dần giảm bớt địch ý với Từ Hành Chi, bây giờ nghe nói có khả năng cậu sẽ gặp nguy hiểm, trái tim ngay lập tức thắt chặt lại: “Sư huynh, đệ mang đến một ít đan được cất riêng, không biết có dùng được không.”
Nhạc Vô Trần phờ phạc: “Để đó đi. Ta ở cạnh Hành Chi thêm, ba canh giờ sau khử độc tiếp…”
Mạnh Trọng Quang ở bên cạnh im lặng lắng nghe, cảm thấy có chút không đúng.
Nhân cơ hội ủ ấm chân, Mạnh Trọng Quang âm thầm suy đoán, bây giờ lượng độc còn sót lại trong cơ thể Từ Hành Chi không nhiều lắm, ấn rắn cạp nong vốn là loại độc cực kỳ ngoan cố, dù Mạnh Trọng Quang tự mình ra tay loại trừ, cùng lắm cũng chỉ có thể làm được như Thanh Tĩnh Quân.
Nhưng vì sao Thanh Tĩnh Quân lại tự trách như vậy chứ?
Lời Nhạc Vô Trần nói có vẻ rất nguy hiểm, Quảng Phủ Quân càng thấy không ổn, đến trước giường nhìn sắc mặt Từ Hành Chi, đo thử nhiệt độ ở tay và trán cậu, hỏi Từ Hành Chi: “Ngươi thấy thế nào rồi?”
Từ trước đến nay, Nhạc Khê Vân luôn lạnh lùng nghiêm nghị, tự dưng quan tâm lại khiến Từ Hành Chi hơi sợ hãi.
Cậu đáp lại vô cùng trang trọng: “Cảm ơn sư thúc, ta ổn cả.”
Nhạc Khê Vân cũng thấy mất tự nhiên, bèn trách mắng: “Ngày thường ngươi quậy phá thế nào thì khi chấp hành nhiệm vụ vẫn luôn cẩn thận làm đâu ra đó, sao lần này lại gặp sự cố nghiêm trọng vậy hả? Sau này sao ta yên tâm cho ngươi dẫn các sư đệ, sư muội ra ngoài diệt quỷ trừ ma nữa?”
Nhạc Khê Vân sừng sộ lên khiến Từ Hành Chi thở phào nhẹ nhõm, trả lời có sức sống hơn hẳn: “Sư thúc, ta nhớ rồi, sau này sẽ không tái phạm.”
Nhạc Khê Vân: “…”
Hắn là người vô vị khô khốc, không nói nổi mấy lời thân thiết dư thừa, đành phải quay lưng đi, chắp tay sau lưng nhẹ nhàng nói: “Nghỉ ngơi cho tốt. Đừng để sư phụ ngươi lo lắng.”
Dứt lời, hắn phất tay áo đi ra ngoài, định lấy thêm ít đan dược đến, ai ngờ vừa đẩy cửa điện ra thì suýt va vào một người.
Người dòm ngó ở ngoài điện lùi lại một bước, hốt hoảng chạm mắt với hắn một lúc mới quỳ rạp xuống cúi lạy: “Sư thúc…”
Quảng Phủ Quân cau mày: “Ngươi?”
“Ta…” Từ Bình Sinh đỏ mặt: “Ta muốn xem Từ sư huynh thế nào rồi.”
Quảng Phủ Quân liếc một cái vào trong, trả lời đâu ra đấy: “Sư huynh đã giải độc cho hắn rồi. Nhưng nghe ý sư huynh thì Hành Chi bị thương không nhẹ, ngươi đi vào cũng không giúp được gì. Theo ta tới phòng thuốc mang thuốc tới đây.”
Từ Bình Sinh bỗng tái mét mặt, trong đầu toàn là “bị thương không nhẹ”, “đi vào cũng không giúp được gì”.
Quảng Phủ Quân thấy cậu ta hồn bay phách lạc quỳ trên đất thì thấy khó hiểu, ngạc nhiên thoáng chốc, liếc mắt một cái lại thấy Cửu Chi Đăng vội vàng bưng đủ loại lọ thuốc đi từ bên ngoài tới, hình như vừa đi từ chỗ phòng thuốc về đây, phía sau còn có Nguyên Như Trú gặp ở giữa đường.
Trong ngực Cửu Chi Đăng đầy chai lọ, nhìn thấy Quảng Phủ Quân không tiện cúi người hành lễ nên quỳ sụp xuống, nện bản thân thẳng xuống đất: “Đệ tử tham kiến sư thúc.”
Với tính cách trầm tĩnh lầm lì của Cửu Chi Đăng, Quảng Phủ Quân tưởng rằng cậu ta sẽ không dễ đi cầu xin người khác, nhưng hắn liếc mắt một cái lại thấy trong lòng cậu ta toàn là thuốc tốt chữa hàn độc.
Thiên Phi Quân trông coi phòng thuốc là người nói nhiều xấu tính, thích gây khó dễ, chế nhạo người khác, có thể lấy được nhiều thuốc từ tay hắn ta thế này, chắc hẳn Cửu Chi Đăng đã bị hắn ta đùa giỡn không ít.
Nghĩ đến đây, Quảng Phủ Quân hơi vui mừng.
Mấy đứa đệ tử của sư huynh, bình thường đứa nào đứa nấy đều ủ rũ nhưng vào lúc này lại biết đoàn kết với nhau, tôn trọng bảo vệ người bề trên, xem ra bản tính không tệ.
Hắn bèn nói: “Đưa thuốc cho ta. Như Trú, Cửu Chi Đăng, Từ Bình Sinh, các ngươi tạm thời về điện của mình nghỉ ngơi đi, không được lan truyền chuyện này.”
Từ Bình Sinh đang định lên tiếng thì Cửu Chi Đăng vừa hổ thẹn vừa sầu lo lại mở miệng nói trước: “Sư thúc, đệ tử muốn ở ngoài trông chừng điện cho sư huynh.”
Quảng Phủ Quân nghĩ ngợi: “Cũng được.”
Từ Bình Sinh mang gương mặt tái nhợt, nhìn qua cánh cửa rộng mở muốn xem thử Từ Hành Chi thế nào nhưng từ phía xa chỉ nhìn thấy cánh tay buông xuống bên cạnh giường, chẳng có nhiều màu máu.
Nhất thời, trái tim cậu ta như bùng cháy mãnh liệt, thậm chí còn chẳng để ý thấy Nguyên Như Trú đi tới bên cạnh mình, hỏi Quảng Phủ Quân về tình hình của Từ Hành Chi.
Hành Chi…
Nếu người bị bệnh bị ốm mà không có ai chăm sóc thì sẽ kiên cường hơn một chút, bây giờ Từ Hành Chi vùi mình trong lò lửa Mạnh Trọng Quang, lại có sư phụ trông nom nên tinh thần thả lỏng, ngủ thiếp đi luôn.
Tới nửa đêm Nhạc Vô Trần lại bế cậu tới bể tắm nước nóng, vận công khử độc. Mà Từ Hành Chi ngâm trong bể nước nóng hầm hập lại chẳng hề thức giấc.
Khử độc xong, Nhạc Vô Trần bế Từ Hành Chi ra, đặt cậu nằm bên bờ, nâng mái tóc ướt nhẹp lên dùng linh lực ở lòng bàn tay hong khô.
Lúc ngón tay mềm mại và linh hoạt sượt qua đuôi tóc dài của thanh niên, trong lòng Nhạc Vô Trần mềm mại quá đỗi.
Y nhỏ giọng nói bên tai Từ Hành Chi: “Hành Chi, xin lỗi con. Sư phụ đảm bảo đây là lần cuối để con bị thương.”
Từ Hành Chi khẽ ừm một tiếng.
Nhạc Vô Trần coi tiếng than vô thức ấy là câu trả lời của Từ Hành Chi, nâng lọn tóc khô một nửa của cậu lên hôn một cái, trong lòng ngoại trừ trìu mến thì toàn là xúc động.
Y cầm bàn tay phải buông xuống của Từ Hành Chi lên, không quay đầu lại mà gọi: “Trọng Quang, qua đây, đưa Hành Chi lên giường.”
Tấm rèm được vén lên, Mạnh Trọng Quang đi tới bể tắm ngập tràn hơi nước.
Vừa nãy hắn đã nhìn thấy hết cảnh Thanh Tĩnh Quân chăm sóc sư huynh, hôn tóc sư huynh.
Mạnh Trọng Quang hơi ghen nhưng kỳ lạ là không bài xích và căm phẫn lắm.
Sư phụ có tình cảm mà hắn không hiểu lắm nhưng lại rất quen thuộc với sư huynh.
Mạnh Trọng Quang nhớ lại rất lâu mới nhớ ra, lúc hắn vẫn còn là con nít, từng nhìn thấy loại tình cảm này trong mắt của một thợ săn thô lỗ vô tri ở giữa núi.
Tận mắt nhìn Từ Hành Chi được bế lên giường, đắp chăn cẩn thận, Nhạc Vô Trần nói với Mạnh Trọng Quang: “Trọng Quang, sau khi bị thương Hành Chi cần người chăm sóc. Sau này ngươi không cần ở điện đệ tử nữa, dọn đến ở cùng với Hành Chi đi.”
Mạnh Trọng Quang ngạc nhiên vui mừng: “Thật sao?”
Hắn vốn luôn thầm hâm mộ Từ Bình Sinh và Cửu Chi Đăng ở sát bên cạnh Từ Hành Chi, nhưng xung quanh điện của Từ Hành Chi không còn gian điện nào ở được, Mạnh Trọng Quang chỉ đành chịu khó đi lại, thường vào giờ mão ba khắc khi bắt đầu giờ học buổi sáng đã ngồi ở ngoài điện Từ Hành Chi, chỉ ngóng trông có thể chào sư huynh một tiếng.
Thấy Mạnh Trọng Quang mừng tít mắt, bên khóe môi Nhạc Vô Trần mang ý cười nhẹ nhàng: “Ta cho phép, đương nhiên là thật.”
Mạnh Trọng Quang ngồi không yên được nữa: “Bây giờ con dọn đến luôn!”
“Vẫn nên đi thông báo với tiểu sư thúc của ngươi một tiếng cho thỏa đáng.” Nhạc Vô Trần dịu dàng nói: “Thu dọn đồ đạc, cứ từ từ mà làm, không cần sốt ruột. Ta ở đây với Hành Chi.”
Mạnh Trọng Quang vui mừng đi khỏi đó.
Sau khi Mạnh Trọng Quang đi, Nhạc Vô Trần cũng đứng dậy theo, đóng cửa đi mất.
Có người muốn thăm Hành Chi, dẫu sao cũng phải chừa cho người ta ít thời gian.
Nhạc Vô Trần đi ra cửa điện, đúng lúc thấy Cửu Chi Đăng chống kiếm dựa vào cột, vì mệt mỏi nên mơ màng ngủ gật, mày nhíu chặt lại, trông đầy lo âu.
Cậu ta muốn canh giữ ở đây, Nhạc Vô Trần không định ngăn cản cậu ta, nhẹ nhàng cử động ngón tay, kéo áo choàng bị tuột khỏi vai mình lên.
Ra khỏi cửa, hứng gió đêm, Nhạc Vô Trần mới thấy cơ thể ướt sũng của mình hơi lạnh.
Nhưng từ trước đến nay, y không để ý tới hình tượng của mình lắm, uống say gây ầm ĩ trong núi giữa ban ngày từng xảy ra mười mấy lần, bây giờ đang giữa đêm, quay về điện Thanh Trúc thay quần áo cũng chẳng hề gì.
Ai ngờ y xoay người đi ra khỏi điện thì thấy một cục đen xì không được bình thường đang lẩn mình trong bóng râm dưới ánh trăng.
Nhìn thấy y, cục đen xì kia cử động, nhanh chóng hiện ra hình người.
Tạp La nhìn đuôi tóc và vạt áo vẫn đang nhỏ nước của Nhạc Vô Trần, hơi cau mày: “Ngươi làm sao vậy?”
Tạp La ngang bướng khó dạy, giáo dục nhiều năm, ở trước mặt người khác thì cũng ra dáng lắm nhưng cứ hễ ở riêng với Nhạc Vô Trần thì xấc láo, ngay cả tôn xưng cũng không chịu gọi.
Nhạc Vô Trần đã quen với điệu bộ của hắn ta nên không cho rằng hắn ta đang gây gổ, y hỏi ngược lại: “Thập Tam chờ ở đây bao lâu rồi?”
Tạp La chống vào tường xoay cổ chân cứng đờ: “Ngươi tới đây thì ta tới theo… Lâu như thế, sao ngươi quay lại điện Thanh Trúc? Hắn bị thương nặng lắm sao?”
Nhạc Vô Trần lại bị chạm tới tâm sự: “Không tốt lắm.”
Tạp La nhìn vẻ mặt ủ rũ không vui của y, không biết tại sao hắn ta lại thấy vui sướng, nghĩ thầm ngươi than vãn trước mặt ta không phải để cho ta xem à.
Vì thế, hắn ta gắng gượng đưa ra lời giải thích đã chuẩn bị suốt mấy canh giờ: “Hôm nay ta ngăn cản Từ sư huynh vì không muốn hắn làm phiền ngươi. Ta không biết hắn bị thương.”
Nhạc Vô Trần giương mắt lên liếc hắn ta, biết hắn ta hiểu lầm.
Việc Hành Chi bị thương còn may mà Tạp La chặn lại ấy chứ. Nếu không Hành Chi giả vờ không sao, cắn răng chịu đựng cho qua thì sẽ để lại một mầm họa.
Nhạc Vô Trần lời ít ý nhiều: “Ta biết.”
Tạp La hiểu sai ý lần nữa, coi câu khẳng định của y là lời tránh né ẩn ý của y, đôi lông mày rậm của hắn ta nhíu chặt lại: “Ta thật sự không cố ý làm hại hắn.”
Nhạc Vô Trần khẽ cười, lặp lại: “Ta biết.”
Dáng vẻ mềm không được cứng không xong của Nhạc Vô Trần khiến Tạp La bực dọc.
Có lẽ mấy năm qua, Nhạc Vô Trần luôn có tài khiến Tạp La bực dọc, ví dụ như vẻ ngoài hiện giờ của y, phát quan ngọc đã được tháo ra, tóc tai rối, cả người ướt sũng, trước ngực và sau gáy đều có vệt nước đan xen, eo bị lớp áo sũng nước siết chặt lại, mặt mày đôi môi của y đều hơi nhợt nhạt, dáng vẻ nhếch nhác, trông cực kỳ dễ ức hiếp.
Cổ họng Tạp La khẽ phát ra một tiếng.
Nhạc Vô Trần đi về phía trước vài bước: “Bên này đã tạm ổn rồi, theo ta về điện Thanh Trúc đi.”
Nhưng thấy lưng y, Tạp La tự dưng nghĩ tới cách ra tay.
Cắt cổ, bóp cổ, đâm vào giữa lưng, tất cả quá trình ám sát lướt trong đầu hắn ta một lượt nhưng hắn ta lại vô thức nhấc chân lên, nghe lời đi theo bóng lưng ướt đẫm kia.
Lần này Nhạc Vô Trần chữa thương cho Từ Hành Chi, ắt hẳn đã tiêu hao không ít linh lực, lúc này hắn ta ra tay thì không được chính đáng, không phải báo thù nghiêm chỉnh.
Sau khi tìm được lời giải thích hợp lý cho việc mình không ra tay, Tạp La bước đi nhanh nhẹn thoải mái hơn hẳn.
Hắn ta không phát hiện ra trong lòng bàn tay phải Nhạc Vô Trần giấu một luồng linh lực.
Lúc ở riêng với Tạp La, Nhạc Vô Trần chưa từng thu luồng linh lực ấy lại.
Mấy năm qua lúc nào y cũng nghĩ, mình giữ Tạp La lại dốc lòng dạy dỗ, liệu có thể thuần hóa hắn ta để hắn ta giúp mình khi ngày đó đến không?
Có lẽ Tạp La đã tốt hơn, cũng có thể là tài giả bộ tinh ranh hơn, Nhạc Vô Trần chưa thể chắc chắn.
Nhạc Vô Trần chưa bao giờ đánh cược, vì thế y thật lòng mong chờ sẽ không cược nhầm vào ván cược được mưu tính nhiều năm này.
Mà lúc này, bên trong phòng ngủ của Từ Hành Chi, trong lúc mơ màng, Từ Hành Chi cảm thấy có người đi tới dịch chăn cho mình, khẽ xoa vết thương sau lưng cậu.
Chạm vào vết thương sẽ rất đau, khi tỉnh táo cậu còn kiềm chế được chứ bây giờ cậu đang mê man, không để ý gì đã rên lên.
Người xoa eo cậu bỗng khựng tay lại, lời quan tâm buột ra khỏi miệng: “Đau hả?”
Nghe thấy giọng nói quen thuộc, Từ Hành Chi giật mình mở mắt ra, xoay người qua, thấy Từ Bình Sinh quỳ bên cạnh giường, chưa kịp giấu vẻ ngập tràn lo lắng.
Từ Hành Chi khẽ lên tiếng: “Huynh trưởng?”
Từ Bình Sinh hơi khựng lại, sau đó dùng giọng nói nhỏ hơn cả giọng Từ Hành Chi đáp lại: “Ừ.”
Ngay sau đó, cậu ta không muốn để Từ Hành Chi nhìn thấy vành mắt ửng đỏ của mình nên cúi đầu xuống nắm tay Từ Hành Chi, bóp một cái, nhận ra cái lò lửa ngày xưa đã cháy hết than, bây giờ nhiệt độ ở tay còn thấp hơn cậu ta nhiều, mắt càng cay hơn: “Sao lại lạnh thế này? Trên người còn khó chịu không?”
Từ Hành Chi thấy lòng mình ấm áp, nhổm người dậy, thì thào: “Có.”
Từ Bình Sinh ngồi vào bên giường, trách móc: “Liều lĩnh quá mức, ta biết ngay sớm muộn gì cũng có một ngày biến thành thế này mà!”
Từ Hành Chi rất khao khát tình thân, nhân cơ hội dựa vào lòng Từ Bình Sinh, làm nũng một cách không thuần thục cho lắm: “Vâng, Hành Chi biết sai rồi… Ca ca ơi, đệ lạnh lắm.”
“Ngươi…” Từ Bình Sinh cứ như thấy được cậu nhóc sợ sâu thút thít không ngừng trong ngôi miếu đổ nát khi còn bé, trái tim chua xót mềm mại từng đợt, cậu ta cầm cái tay lạnh căm lên hà hơi: “Bao lớn rồi, khó chịu chỉ biết gọi ca ca thôi, có tiền đồ không hả?”
Từ Hành Chi càng tợn hơn: “Ca ca ơi.”
“Không được làm nũng!”
Mắng câu thứ hai xong, Từ Bình Sinh dùng bàn tay đệm sau đầu Từ Hành Chi để cậu nằm thoải mái hơn, miệng vẫn lải nhải, dường như đụng vào người này là cậu ta có vô số lời oán hận muốn nói.
Từ Hành Chi mê man choáng váng nhưng vui vẻ lắng nghe, thỉnh thoảng gật đầu phụ họa, ai ngờ không cẩn thận hùa theo sai, bị Từ Bình Sinh giận dữ ấn trán.
Từ Hành Chi mỉm cười, cảm thấy mình như chìm vào giấc mơ đẹp, chỉ mong mãi mãi không tỉnh lại.
Trước kia không phải Từ Hành Chi chưa từng bị thương bao giờ. Lúc bắt quỷ tu giết hại cha mẹ nhà họ Ôn giúp Ôn Tuyết Trần, cậu suýt bị lão già chết tiệt chặt rơi đầu, nhưng kiếm ít thuốc cầm máu bôi cái là lại nhảy nhót tung tăng như thường ngày.
Theo như lời Chu Bắc Nam nói, cậu từ xương tới da tới mặt từ trong ra ngoài đều dày.
Vì thế mà Từ Hành Chi bị thương nặng đã khiến toàn bộ bốn môn phái chấn động, ba quân trưởng còn lại đều hỏi thăm về việc này, thậm chí Phù Diêu Quân còn tự mình tới Phong Lăng Sơn, mang không ít linh dược bồi bổ cơ thể tới, khiến Từ Hành Chi vừa mừng vừa lo.
Rất nhanh sau đó, Ôn Tuyết Trần, Khúc Trì và Chu Bắc Nam hẹn nhau cùng tới.
Quân trưởng của ba môn phái biết đệ tử đứng đầu của mình thân thiết với đệ tử đứng đầu Phong Lăng nên đương nhiên cho phép bọn họ đi thăm bệnh. Dù sao thì nếu sau này không có bất ngờ gì xảy ra, bốn người họ sẽ là chủ mới của bốn môn phái, bây giờ giao lưu nhiều hơn cũng không phải chuyện xấu.
Từ Hành Chi sợ cô đơn, thấy có nhiều người đến như thế thì vui quá chừng, nếu không có Mạnh Trọng Quang ấn cậu lại thì chắc là cậu đã bò dậy sắp xếp bàn và đồ uống rượu rồi.
Từ Hành Chi khoác áo nằm nghiêng trên giường, nhiệt tình nói: “Nào nào nào, mau ngồi đi.”
Chu Bắc Nam không khách sáo với cậu, bệ vệ ngồi xuống, cầm cổ tay Từ Hành Chi, dùng linh lực xem xét.
Xúc cảm lạnh lẽo khiến sắc mặt cậu ta khó coi theo.
Ôn Tuyết Trần di chuyển xe lăn đến gần, hỏi chuyện: “Làm sao?”
Chu Bắc Nam buông tay ra, không nói gì mà vén chăn cậu lên, vạch áo cậu ra, đập vào mắt cậu ta là vết xà ấn như ngọn lửa khiến mắt cậu ta bỏng rát.
Khúc Trì đi đến gần giường, cúi người xuống: “Thế này chắc là sẽ để lại sẹo đấy.”
Từ Hành Chi nằm trên giường cười khì khì: “Ta soi gương xem rồi, vết sẹo này không xấu. Trên người đàn ông phải có thật nhiều sẹo trông mới oai chứ.”
“Nói bậy bạ.” Chu Bắc Nam lườm Từ Hành Chi, hỏi: “Quỷ tu làm ngươi bị thương đâu?”
“Bị một kiếm đâm chết rồi.”
Từ Hành Chi nói xong thì lấy ba quả mơ vàng trên đĩa ở đầu giường, lần lượt chia cho ba người.
Chu Bắc Nam cau mày: “Hời cho hắn rồi.”
Mơ vàng rất tươi, ngoài vỏ còn có nước do mới rửa, Ôn Tuyết Trần lôi một cái khăn ra lau, cắn một miếng, mi tâm bỗng nảy thịch lên, mí mắt co rút lại.
Nhưng hắn khống chế biểu cảm của mình, bình thản cắn một miếng rồi dùng khăn lau nước dính trên miệng: “Ngươi hành động quá lỗ mãng, lần này chịu một bài học, lần sau mới biết chừng mực.”
Khúc Trì ở bên cạnh cắn một miếng mơ vàng theo Ôn Tuyết Trần, hàm răng vừa mới xuyên qua vỏ, nửa quai hàm đã buốt nhói.
Cũng may Khúc Trì được dạy dỗ tốt, biết đạo lý khách phải theo chủ nên cắn một miếng mơ xong, Khúc Trì lặng lẽ giấu nó ra sau lưng.
“Tuyết Trần, đừng càm ràm hắn.” Hiếm khi Chu Bắc Nam che chở cho Từ Hành Chi: “Bài học này lớn quá. Ngươi sờ tay hắn thử xem lạnh đến mức nào rồi.”
Khúc Trì hơi đau lòng: “Sao lúc bị thương không báo cho bọn ta.”
Từ Hành Chi thẳng thắn nói: “Sợ các ngươi cười ta chứ sao.”
Chu Bắc Nam: “Trước giờ ngươi mặt dày lắm mà, giờ lại biến thành mỏng rồi à?”
“Sóng to gió lớn đều qua hết rồi, lật thuyền trong mương nhỏ, nếu là ngươi thì ngươi cũng không muốn để người khác biết.”
“Lật thì lật thôi, có thể thế nào?” Chu Bắc Nam tức giận: “Giấu mọi người để thể hiện ngươi giỏi à?”
Thấy Từ Hành Chi cúi đầu không nói gì, trái tim Chu Bắc Nam lại mềm nhũn ra.
Lần này ngậm miệng lại, cậu ta mới thấy hơi khát.
Sau khi xin nghỉ ở chỗ phụ thân, cậu ta đi thẳng tới đây, chưa kịp uống giọt nước nào, đến Phong Lăng thì chạy đi chào Thanh Tĩnh Quân trước, sau đó lại càm ràm Từ Hành Chi một tràng dài, lúc này miệng đắng lưỡi khô, cậu ta bèn cầm quả mơ lên cắn một miếng to.
Thoắt cái Chu Bắc Nam trợn tròn mắt lên, phì phì hai tiếng ho sặc sụa, nước mắt tuôn trào không ngừng.
Từ Hành Chi nằm trên giường mà cười vỗ chăn bùm bụp, Ôn Tuyết Trần mím môi, cũng đang nhịn cười.
Lòng tốt và thương xót đều đút cho con chó chân dài lòng lang dạ sói trước mặt, Chu Bắc Nam nổi cáu, vứt quả khiến cậu ta làm trò cười cho thiên hạ đi, xốc tay áo lên bất chấp nhào tới, nước mắt giàn giụa cưỡi trên người Từ Hành Chi.
Đương nhiên cậu ta không nỡ đánh Từ Hành Chi đang trong tình trạng mặt mày tái nhợt yếu ớt được, chỉ đành đè lên người cậu. Từ Hành Chi la làng lên một cách khoa trương, mãi đến tận khi Mạnh Trọng Quang đau lòng giải cứu cậu khỏi sự đè ép của Chu Bắc Nam, cậu mới nằm nhoài lên bả vai Mạnh Trọng Quang, cười nói: “Đừng nghịch, đừng nghịch nữa, ta không còn sức, khó chịu.”
Một miếng cắn ấy mang uy lực to lớn, bây giờ trong miệng Chu Bắc Nam vẫn còn thấy chua: “Đó là gì thế?”
Từ Hành Chi đáp: “Đồ ăn vặt của ta.”
Chu Bắc Nam: “Cái thứ tệ hại chưa chín ấy mà ngươi cũng dám bỏ vào miệng à?”
Từ Hành Chi nhón một quả, tỉnh bơ cắn một miếng: “Người tệ thì ăn đồ tệ thôi.”
Nếu Chu Bắc Nam trải qua cuộc sống ở thôn họ Từ như Từ Hành Chi đã từng thì cậu ta sẽ biết, từ đầu thôn đến cuối thôn chỉ có hai cây hồng dại, trẻ con tham ăn lại chạy đầy đất, nếu chậm tay thì cũng không giành được miếng hồng xanh vỏ nào, chỉ có thể nhìn người khác mà nuốt nước miếng.
Từ Hành Chi mắt tinh lại thông minh, bấm tay tính ngày hồng chín, leo trèo vừa nhanh vừa giỏi, vì thế hằng năm cậu đều có thể hái được sáu quả hồng xanh không nhỏ mang về nhà, chờ hồng chín thì đưa mẫu thân ba quả, ca ca hai quả, cậu tự giữ lại một quả còn xanh, chưa chờ nó chín hẳn đã cắn một miếng thật to, dù bị chát vì hồng xanh, hai ngày sau bị nói đớt cũng thấy thú vị.
Cứ thế, cậu có cái lưỡi xảo trá tai quái. Không sửa được, cũng không muốn sửa.
Chu Bắc Nam không thể hiểu nổi khẩu vị của cậu, đành từ bỏ, đẩy đĩa mơ vàng ra thật xa.
Từ Hành Chi: “Ơ kìa.”
“Đừng ăn mấy cái này, hại dạ dày.” Chu Bắc Nam nói chuyện mang đôi phần chuyên quyền độc đoán: “Ta đi chuẩn bị gì đó có thể bỏ vào miệng cho ngươi.”
Nói xong, cậu ta chạy ra ngoài như một cơn gió.
Chờ Chu Bắc Nam ra khỏi đó, Ôn Tuyết Trần và Khúc Trì không hẹn mà cùng nhau bỏ quả chua giấu trong tay xuống.
Ôn Tuyết Trần nói: “Ngươi nằm nghỉ trước đi, ta và Khúc Trì qua điện dành cho khách.”
Mắt Từ Hành Chi sáng bừng lên: “Hôm nay các ngươi không về à?”
“Ta báo với sư phụ rồi.” Ôn Tuyết Trần nói: “Ta sẽ ở đây hai ngày.”
Khúc Trì nói: “Ta ở đây ba ngày.”
Mấy chữ ngắn cũn nhưng khiến lòng Từ Hành Chi ấm áp vô cùng, ôm chăn giục: “Thế các ngươi đi mau về mau, tối nay ta dạy các ngươi chơi mạt chược và bài cửu.”
Khúc Trì bật cười, ấn vai cậu nói: “Nằm yên trên giường đi, chờ ngươi khỏi hẳn rồi tính.”
Ôn Tuyết Trần dịch xe lăn ra sau, lúc này mới như nhớ ra gì đó, quay ra cửa điện gọi: “Vào đi.”
Từ Hành Chi nhìn theo tầm mắt hắn, đúng lúc thấy Lục Ngự Cửu dáng người thấp bé nhấc chân bước vào trong điện, cung kính quỳ xuống hành lễ: “Đệ tử tham kiến Từ sư huynh.”
Từ trước đến nay quy củ ở Thanh Lương Cốc luôn rất nghiêm, có cả hạn chế về nếp nhăn của quần áo khi hành lễ với người bậc trên, càng khỏi phải nói tới cười đùa cợt nhả. Vì thế, tới tận khi nghe thấy Từ Hành Chi gọi tên mình, Lục Ngự Cửu mới dám ngẩng đầu lên, ngại ngùng mỉm cười với cậu.
Từ Hành Chi có ấn tượng rất tốt về tên quỷ tu này: “Tiểu Lục cũng tới à?’
“Hắn dùng mọi cách cầu xin ta.” Ôn Tuyết Trần xoay vòng âm dương trên cổ tay: “Ngươi và hắn có tình nghĩa sâu đậm với nhau từ bao giờ thế?”
Từ Hành Chi đối đáp trôi chảy: “Vào lễ tế Đông Hoàng sáu năm trước ấy. Tên nhóc này rất nghĩa khí, biết bọc hậu cho các đệ tử, ta cứu hắn một mạng, từ đó thì quen biết nhau.”
Ôn Tuyết Trần thầm gật đầu. Không khác gì so với những lời Lục Ngự Cửu nói với hắn.
Dù Ôn Tuyết Trần kiêu ngạo, không hiểu tại sao Từ Hành Chi là đệ tử đứng đầu mà lại bằng lòng kết bạn với đệ tử cấp thấp nhưng nếu Từ Hành Chi vui vẻ thì hắn cũng vui lòng giả bộ hồ đồ: “Lục Ngự Cửu, ngươi ở đây với hắn một lúc, ta và Khúc sư huynh đi một lát rồi quay lại.”
Sau khi Lục Ngự Cửu ở lại, Từ Hành Chi nhận ra cậu ấy có chuyện muốn nói, y bèn nói với Mạnh Trọng Quang đang hầu hạ: “Trọng Quang, ra ngoài hái chút hoa quả về đây.”
Mạnh Trọng Quang không muốn đi lắm, nhất là khi thấy khuôn mặt phong thái của Lục Ngự Cửu không tầm thường, trông rất ngoan ngoãn, vì thế đôi chân hắn chẳng chịu cử động, bèn mượn lý luận của Chu Bắc Nam: “Sư huynh, ăn đồ chua hại dạ dày.”
Từ Hành Chi chậc một tiếng, giơ tay vỗ mông hắn: “Không hiểu ta có ý gì à? Mau đi đi.”
Mạnh Trọng Quang không thể làm gì khác hơn là ỉu xìu vừa xoa chỗ bị đánh hơi tê vừa đi ra ngoài, không phục lắm, trước khi đi cũng không đóng cửa cẩn thận.
Lục Ngự Cửu dè dặt đi đến bên giường, hàng mi dài mềm mại cụp xuống, phủ lên đôi mắt to như hạnh nhân.
Rõ ràng đã đến tuổi thanh niên rồi mà Lục Ngự Cửu chỉ có trọng lượng như đứa trẻ choai choai, giọng nói cũng mềm dịu: “Từ sư huynh.”
Từ Hành Chi vẫy tay với cậu ấy: “Có chuyện gì mau nói đi. Một lúc nữa đám Tuyết Trần sẽ quay lại đấy.”
Lục Ngự Cửu cũng không muốn làm mất nhiều thời gian: “Từ sư huynh, đệ là quỷ tu. Đệ biết cách áp chế độc tính của ấn rắn cạp nong. Sau khi dùng, hàn độc chỉ thỉnh thoảng phát tác, không bị lạnh người mọi lúc mọi nơi. Huynh cũng biết đấy, quy định ở Thanh Lương Cốc rất nghiêm ngặt, đệ không thể tùy tiện chạy tới gặp Từ sư huynh, vì thế chỉ có thể nhân cơ hội này…”
Nghe cậu ấy bảo có thể giảm bớt hàn độc, đương nhiên Từ Hành Chi vui vẻ không thôi, vén chăn lên nói luôn chẳng chút nghĩ ngợi: “Vậy thì mau lên.”
Lục Ngự Cửu thấy Từ Hành Chi không hề nghi ngờ mình sẽ giở trò gì đó thì rất cảm động, không dám rề rà thêm, ngay lập tức, thầm điều tức điều động linh mạch quỷ tu ẩn giấu kín kẽ của mình ra, đặt ngón tay vào vết xà ấn ở eo Từ Hành Chi, vẽ một cái bùa chú phức tạp, hiện lên ánh sáng lờ mờ.
Trong điện có quỷ khí âm hàn dao động. Đôi mắt đen láy trong veo của Lục Ngự Cửu biến thành màu xanh nhạt như hồ ly, hơi nhếch miệng, chăm chú đến mức trông hơi ngốc nghếch.
Bùa chú hòa vào cơ thể, Từ Hành Chi cảm thấy tứ chi bách hài ứ đọng của mình lưu thông trở lại, hàn ý nặng nề cũng dần rút đi.
Lúc Lục Ngự Cửu rút tay về, cậu khoan khoái thở hắt ra một hơi, chậm rãi vặn eo, khi nghe tiếng bước chân vội vàng chạy tới ở bên ngoài cửa điện thì đã chậm một bước.
Từ Hành Chi hoảng hốt, lập tức vận linh lực muốn che lấp quỷ khí còn sót lại khi Lục Ngự Cửu thi pháp, nhưng người đến trước giờ không hề để ý đến quỷ củ gì cả, cười toe toét đẩy cửa ra: “Hành Chi, ta hái cho ngươi ít…”
Quỷ khí còn sót trong điện khiến cậu ta đanh mặt lại, đôi mắt màu xanh đặc thù của quỷ tộc hoảng loạn lúng túng nhìn thẳng vào cậu ta.
Từ Hành Chi biết không ổn: “Bắc Nam, ngươi…”
Trong giây phút này, Lục Ngự Cửu hốt hoảng đến mức quên cả hít thở, hàn ý hừng hực bốc lên từ lòng bàn chân. Cậu ấy quên sạch toàn bộ quy củ, trong đầu chỉ còn một chuyện:
Bị phát hiện rồi!
Trốn! Phải chạy trốn thôi!
Cửa bị thân hình cao lớn của Chu Bắc Nam chặn mất, Lục Ngự Cửu chỉ đành quay lưng về phía cậu ta, nhanh chân chạy về phía cửa sổ rộng mở.
Nhưng Chu Bắc Nam đâu phải người bình thường?
Gió mạnh ập tới từ sau cổ, ý lạnh lướt qua sát cổ cậu ấy, bay sượt qua rồi câu lại, Lục Ngự Cửu run chân, loạng choạng lùi về sau hai bước, cổ áo bị Chu Bắc Nam xách lên.
Đây là chỗ ở của Từ Hành Chi, Chu Bắc Nam không tiện quăng quật, nhóc quỷ tu này cũng không có vẻ liều chết phản kháng, vì thế cậu ta bèn tiện tay thả Lục Ngự Cửu đang run lẩy bẩy ra, ném vào cái bàn gỗ đàn hương đặt đĩa hoa quả.
Lúc bị ném lên bàn, Lục Ngự Cửu bị đập phải xương cùng, vừa đau vừa sợ, lúc nước mắt rưng rưng sắp trào ra, Chu Bắc Nam ấn cổ cậu ấy, đưa một luồng linh lực vào trong cơ thể cậu ấy.
Chỉ chốc lát sau, Chu Bắc Nam tái mặt: “Ngươi thật sự là…”
Lục Ngự Cửu nằm trên bàn, đầu không chạm trời, chân không chạm đất, trước mặt có bóng râm to cao như ma quỷ bao phủ cậu ấy, trên mặt cậu ấy nhanh chóng mất đi màu máu, ngón chân quặp chặt đế giày, sợ run người.
Chu Bắc Nam nghiêm mặt: “Ngươi trà trộn vào Thanh Lương Cốc có mục đích gì? Vừa nãy ngươi làm gì Hành Chi?”
Cổ họng Lục Ngự Cửu phát ra tiếng ừng ực, trong mắt hiện lên nỗi buồn rầu, cuống quýt đến mức nói không nên lời: “Chu, Chu…”
Từ Hành Chi chân trần khoác áo bước xuống, vừa tập trung xua tan quỷ khí trong điện, vừa đè tay Chu Bắc Nam lại: “Này này, Tiểu Lục người ta có lòng tốt, ngươi đừng hung dữ thế chứ.”
Chu Bắc Nam trừng mắt: “Hắn! Hắn là quỷ tu!”
Từ Hành Chi nói: “Ta biết, vừa nãy hắn giải độc cho ta đó. Ngươi xem ngươi làm đứa nhỏ sợ rồi kìa.”
Chu Bắc Nam nửa tin nửa ngờ nhìn sang Lục Ngự Cửu, bị cậu ấy làm cho giật nảy mình, lập tức buông tay ra.
Lục Ngự Cửu ngơ ngác nhìn cậu ta, hai mắt rưng rưng, thấy mình có thể cử động thì dùng cả tay cả chân bò xuống khỏi bàn rồi quỳ xuống, chưa nói gì đã có hai giọt nước mắt rơi xuống nền đất, rất vang.
Chu Bắc Nam không chịu nổi việc ai đó khóc, chỉ vào Lục Ngự Cửu lắp bắp nói: “Ngươi… Ta đã làm gì ngươi đâu. Ngươi ngươi ngươi lau nước mắt đi, để người ta thấy lại tưởng Chu Bắc Nam này ỷ thế hiếp người.”
Lục Ngự Cửu vùi đầu lau mặt, nhưng vì kìm nén quá mức nên thở không nổi, phát ra tiếng sụt sịt khe khẽ.
Chu Bắc Nam bị tiếng khóc nghẹn ngào của cậu ấy làm cho tê cả da đầu, hung dữ nói: “Không được khóc!”
Từ Hành Chi nỗ lực hòa giải, giật cánh tay Chu Bắc Nam, bây giờ Chu Bắc Nam đang rối, trong đầu toàn là “có mục đích gì”, “Một đứa trẻ đang yên đang lành sao lại là quỷ tu”, “Ôi ôi ôi khóc thế kia thì phải làm sao”, bị Từ Hành Chi kéo một phát, cơn giận xộc thẳng lên đầu: “Vết thương của ngươi khỏi rồi đúng không? Cút về giường!”
Từ Hành Chi biết lúc nào nên thể hiện lúc nào nên tém lại, nhanh nhẹn nói: “Được luôn.” Sau đó nhanh chóng chạy về giường.
Chu Bắc Nam bình tĩnh lại một chút, đi tới bên giường, cong chân ngồi xuống: “Nói đi, chuyện là thế nào?”
Từ Hành Chi duỗi tay ra vẫy trước mặt cậu ta: “Tiểu Lục bị ngươi dọa sợ, ta nói thay hắn. Nếu cứ dây dưa mãi, tới khi Tuyết Trần quay lại thì càng không nói được nữa.”
Từ Hành Chi nói chuyện lưu loát, dăm ba câu đã kể xong thân thế của Lục Ngự Cửu, lại cố ý nhấn mạnh thay cậu ấy, trước khi vào Thanh Lương Cốc, cậu ấy không biết mình là quỷ tu.
Chu Bắc Nam không tin lắm: “Thật thế ư?”
Cuối cùng lúc này Lục Ngự Cửu đang quỳ trên đất cũng khôi phục được khả năng ngôn ngữ, nhưng năng lực vẫn rất kém, âm thanh phát ra không to hơn tiếng muỗi kêu là mấy: “Thưa Chu sư huynh, đệ thật sự không cố ý… Nếu đệ biết, đệ tuyệt đối sẽ không vào cốc bôi nhọ thanh danh của Thanh Lương Cốc…”
Chu Bắc Nam vốn không phải người đa nghi, đứa nhỏ trước mặt vừa mới đi tiêu diệt quỷ tu với bọn họ, lại được Từ Hành Chi bảo đảm, còn vì giải độc cho Từ Hành Chi mới bị bại lộ thân phận…
Trực giác của cậu ta cho thấy Lục Ngự Cửu không cùng một giuộc với đám quỷ tu làm xằng làm bậy kia, chỉ bị đầu thai xui xẻo thôi.
Từ góc độ Chu Bắc Nam đang ngồi, cậu ta chỉ có thể nhìn thấy xoáy tóc bù xù của Lục Ngự Cửu, tổng thể thì mái tóc đen nhánh khá mềm mượt, chỉ có nhúm tóc ở trên xoáy dựng thẳng hết lên, như bị dọa sợ rồi nổ tung.
Chu Bắc Nam nhìn xoáy tóc ấy nghĩ ngợi một lúc, đưa ra kết luận: “Đừng ở lại Thanh Lương Cốc nữa.”
Trái tim Lục Ngự Cửu bỗng rơi thẳng xuống vực sâu không đáy!
Không dễ gì cậu ấy mới tìm được một mái nhà, không dễ gì cậu ấy mới có được các vị sư huynh mà cậu ấy có thể thật lòng thật dạ coi họ là người nhà…
Mặc dù biết mình không có tư cách đưa ra yêu cầu nhưng Lục Ngự Cửu vẫn quỳ rạp ra đất cầu xin: “Chu sư huynh, xin huynh đừng nói cho Ôn sư huynh biết, đừng đuổi đệ đi… Đệ xin thề, sau này không bao giờ sử dụng huyết thống quỷ tộc nữa, không bao giờ làm chuyện ác, đệ tuyệt đối…”
Cậu ấy nói năng lộn xộn muốn thề thốt nhiều hơn nhưng bị Chu Bắc Nam hung hãn ngắt lời.
“Ngươi không muốn sống nữa à?” Chu Bắc Nam tức giận vẫn không quên nói nhỏ xuống: “Ngươi là quỷ tu, trà trộn vào Thanh Lương Cốc, Ôn Tuyết Trần mà biết thì ngươi chết chắc!”
Nói trắng ra là, Chu Bắc Nam hoặc Từ Hành Chi tin cậu ấy cũng chẳng có tác dụng gì hết.
Ôn Tuyết Trần là người mắt tinh tai thính, thông minh nhạy bén, đâu dễ bị lừa dối. Nếu Lục Ngự Cửu cả đời khiêm tốn, làm một đệ tử không ai biết đến thì cũng được thôi nhưng chẳng may tương lai có thành tựu gì, bị Ôn Tuyết Trần để mắt tới, với lá gan của nhóc quỷ tu xù lông này thì bị vạch trần cũng chỉ là chuyện sớm muộn.
Trong bốn môn phái có ai không biết Ôn Tuyết Trần cực kỳ ghét người không thuộc chính đạo cơ chứ, mà trong số những người không thuộc chính đạo thì hắn ghét quỷ tu nhất, không gặp thì thôi, gặp thì ắt phải chết. Một tên quỷ tu trà trộn vào Thanh Lương Cốc, giấu giếm hắn nhiều năm, một khi bị vạch trần thân phận, hoàn toàn có thể dự đoán được kẻ đó sẽ có kết cục thế nào.
Chu Bắc Nam nói đến mức đấy rồi, ai ngờ Lục Ngự Cửu vẫn u mê bất chấp: “Đệ sẽ cẩn thận…”
Chu Bắc Nam trợn trừng mắt lên, không định dây dưa với Lục Ngự Cửu nữa, quay đầu nói với Từ Hành Chi: “Không phải ngươi kéo hắn về Phong Lăng Sơn là xong rồi sao? Ở lại Thanh Lương Cốc, sớm muộn gì cũng bị phát hiện.”
“Vừa nãy Tuyết Trần đã hỏi ta vì sao ta và Tiểu Lục thân thiết với nhau.” Từ Hành Chi cong ngón tay phải lại gõ vào đầu gối: “Chắc hắn đã hơi nghi ngờ gì rồi. Ngươi đoán nếu ta đòi Tiểu Lục từ chỗ hắn, với tính cách của Tuyết Trần, hắn có âm thầm điều tra ngọn nguồn quan hệ của ta và Tiểu Lục không?”
Chu Bắc Nam nghe mà rầu, vươn tay gãi đầu, ai ngờ đột nhiên thông minh, bị cậu ta gãi ra một ý tưởng.
Cậu ta vỗ tay: “Thật sự không được thì để hắn cho ta!”
Lục Ngự Cửu bỗng ngẩng phắt đầu lên, đôi mắt tròn xoe thất lễ nhìn chằm chằm Chu Bắc Nam.
Chu Bắc Nam càng nói càng cảm thấy cách của mình hay: “Ta đang thiếu một hầu cận, hắn đến thì vừa khéo lấp vào chỗ trống đó. Ứng Thiên Xuyên của ta có thương tu, đan tu và trận tu, hắn đi theo ta sẽ không đến mức thành kẻ vô dụng.”
Từ Hành Chi hỏi ngược lại: “Ngươi là đại sư huynh của Ứng Thiên Xuyên, chọn hầu cận mà không chọn người trong Ứng Thiên Xuyên lại đi nhặt người của Thanh Lương Cốc, ra thể thống gì? Ngươi định dùng cớ gì để đòi người với Tuyết Trần?”
“Thấy có duyên.” Chu Bắc Nam vắt chéo chân: “Ta thích ai ghét ai chẳng phải do bản thân ta có vui hay không à?”
Lời ấy không sai, phụ thân của Chu Bắc Nam – Chu Vân Liệt cực kỳ yêu thương hai đứa con của mình, Chu Bắc Nam được chiều từ nhỏ, tính cách nói dễ nghe thì là vô tư thích gì làm nấy, nói khó nghe sẽ là ngang ngược coi trời bằng vung, yêu hận phải dựa vào trái tim, nếu có duyên với ai đó, dù là bạn đời hay bạn bè, đều phải quyết tâm một đời một kiếp.
Nhưng với lòng tốt của Chu Bắc Nam, Lục Ngự Cửu không hề thấy biết ơn mà nhận.
Cậu ấy nhìn Từ Hành Chi, nhỏ giọng xin giúp: “Từ sư huynh…”
Lục Ngự Cửu vừa trưng vẻ ấy ra, Chu Bắc Nam lại thấy khó chịu.
“Này, gọi hắn làm gì?” Chu Bắc Nam quạu thật sự: “Ta muốn ngươi, ngươi lại không bằng lòng à?”
Đương nhiên Lục Ngự Cửu không muốn, trăm nghìn lần không muốn. Từ khi ra đời tới nay, người cậu ấy sùng bái nhất là Ôn Tuyết Trần, tiên phong đạo cốt, trang nghiêm lạnh lùng, là thần tiên trong tưởng tượng của cậu ấy, Từ sư huynh chỉ xếp thứ hai, cậu phong lưu phóng khoáng, vô cùng nhân hậu, là tán tiên tự do tự tại mà Lục Ngự Cửu hâm mộ nhất.
Còn Chu đại thiếu này, Lục Ngự Cửu biết rất ít về cậu ta, chỉ biết cậu ta có cái tính cực kỳ tệ, động một tí là muốn đánh đấm Từ sư huynh, ngang ngược hống hách khiến người ta ghét.
Thế mà nhược điểm lớn nhất của mình lại rơi vào tay người này…
Nghĩ tới đây, Lục Ngự Cửu lo lắng đổ mồ hôi, sốt ruột sắp khóc tới nơi.
Vẻ mặt miễn cưỡng thỏa hiệp của Lục Ngự Cửu chọc cho Chu Bắc Nam bốc hỏa, cái nết cậu ấm bốc thẳng lên từ huyệt Thiên Linh: “Ngươi…”
Cậu ta chưa nói hết câu, cánh cửa đã mở ra từ phía ngoài.
Khúc Trì vào trước vì mở cửa cho Ôn Tuyết Trần, vì thế lúc nhìn thấy Lục Ngự Cửu quỳ trên đất mặt đầy nước mắt, dù hắn là người luôn bình tĩnh vững vàng, không bị ảnh hưởng bởi chuyện bên ngoài cũng khó tránh khỏi ngạc nhiên: “Chuyện gì đây?”
Tới khi nhìn thấy Ôn Tuyết Trần đi từ bên ngoài vào, Lục Ngự Cửu giật nảy mình, đầu gối mềm nhũn hơn: “Ôn, Ôn sư huynh…”
Ôn Tuyết Trần từ xa đã thấy Lục Ngự Cửu quỳ trên mặt đất, cả người hiện ra vẻ thê lương, hắn chưa vào điện đã nhíu mày: “Làm sao? Phạm lỗi gì rồi?”
Chu Bắc Nam cảm thấy Lục Ngự Cửu là một người không tệ, không muốn để cậu ấy tiếp tục một lòng ở Thanh Lương Cốc, rơi vào kết cục người chết hồn diệt, cậu ta bèn lên tiếng nói rõ trước Lục Ngự Cửu: “Tuyết Trần, ta muốn hắn.”
Ôn Tuyết Trần: “…”
Lục Ngự Cửu: “…”
Khúc Trì: “…”
Từ Hành Chi ôm chăn xem trò hay.
Ôn Tuyết Trần không dễ dàng gì mới lấy lại tinh thần: “Ngươi bị ngu gì thế?”
Chu Bắc Nam hất cằm lên: “Ta thiếu một hầu cận. Ta ưng tên nhóc này.”
Ôn Tuyết Trần nhíu mày thầm nghĩ, cái nết muốn là làm ngay của Chu Bắc Nam lại tái phát rồi.
“Ngươi muốn chọn hầu cận thì về Ứng Thiên Xuyên các ngươi mà chọn.” Ôn Tuyết Trần lạnh nhạt nói: “Thanh Lương Cốc bọn ta không phải nơi nuôi hầu cận cho ngươi.”
Nghe ra ý từ chối rõ ràng trong lời Ôn Tuyết Trần, Lục Ngự Cửu mừng muốn khóc, khuôn mặt trắng trẻo mịn màng dần có màu máu.
Vẻ không muốn ấy của Lục Ngự Cửu rơi vào trong mắt Ôn Tuyết Trần khiến hắn có đôi phần thương tiếc: Chắc là đứa nhỏ này chưa thấy Chu Bắc Nam làm theo ý mình bao giờ nên sợ đây mà.
Ôn Tuyết Trần thở dài, liếc mắt ra hiệu cho cậu ấy: Ra ngoài đi.
Lục Ngự Cửu nhận mệnh lệnh, nhanh chóng bò dậy, trước khi ra khỏi cửa còn quay đầu lại nhìn Chu Bắc Nam.
Chu Bắc Nam biết lúc này có tám mươi phần trăm mình không thể đòi Lục Ngự Cửu từ Thanh Lương Cốc được, phiền muộn xong còn không quên nhướng mày với Lục Ngự Cửu, ẩn ý rất rõ ràng.
Ta không nói, ngươi yên tâm.
Chu Bắc Nam nhướng mày lên mang đậm khí phách thiếu niên phóng khoáng, ngũ quan cực kỳ sinh động anh tuấn, làm cho Lục Ngự Cửu yên tâm vô cớ.
Cậu ta không giống người lén lút tố giác…
Lục Ngự Cửu cố ép trái tim đang đập thình thịch xuống, cúi đầu men theo chân tường chạy ra khỏi phòng ngủ.
Khung cảnh ấy rơi vào trong mắt người không biết chuyện gì như Khúc Trì và Ôn Tuyết Trần, biến thành Chu Bắc Nam dụ dỗ người ta không được, trước khi đi còn liếc mắt, ai ngờ dọa người ta sợ chạy mất.
Hai người nhìn nhau, đều thấy được khó xử trong mắt đối phương.
Bọn họ không biết bạn chí cốt của mình có đam mê này.
Từ Hành Chi nhìn thấy hết tất cả mọi chuyện thì cười thầm, đưa quả mơ vàng vừa lấy ở bàn lên miệng, đang định cắn một miếng thì bị Chu Bắc Nam tay mắt lanh lẹ cướp mất.
Cậu ta lấy hai quả đào mật đỏ hồng tươi rói đã được rửa sạch trong tay áo ra, đập vào ngực Từ Hành Chi: “Nhìn thấy không, đây mới là thứ dành cho con người ăn.”
Từ Hành Chi ngắm nghía quả đào, hơi nghiêng đầu: “Đây là đào Phụng Hóa à?”
Chu Bắc Nam sượng mặt: “Im miệng.”
“Phụng Hóa là nơi trồng nhiều đào mật nhất, nhưng Phụng Hóa cách đây trăm dặm, Chu mập à vừa nãy ngươi chạy…”
Chu Bắc Nam không thể chịu nổi nữa, chộp một quả đào chặn miệng cậu lại, cuối cùng tai cũng được yên tĩnh.
Nhưng cậu ta vô thức liếc mắt ra ngoài cửa sổ, nhớ tới cái đầu tròn tóc xù, nghĩ: Tên ngốc, cho ngươi làm hầu cận của ta mà không thèm, không biết điều.
Nhưng may có Lục Ngự Cửu giúp đỡ, vết thương của Từ Hành Chi tốt lên nhanh chóng. Mỗi ngày sáng tối Nhạc Vô Trần đều tới xem cậu thế nào, thấy hàn độc trong cơ thể cậu giảm mạnh thì mừng rỡ không thôi, dặn dò săn sóc, hệt như người cha hiền từ, khiến ba đệ tử đứng đầu của ba môn phái còn lại nhìn mà thèm.
Công việc thường ngày của ba môn phái không ít, ba người muốn ở lại thêm nhưng chỉ muốn thế thôi. Sau khi Chu Bắc Nam cũng về rồi, Nhạc Vô Trần ngồi trong điện Từ Hành Chi suốt cả một ngày.
Từ Hành Chi hơi áy náy, cười đùa nói: “Sư phụ, nếu người có việc bận thì người cứ đi đi. Bây giờ con không thể uống rượu với người được.”
“Ta tìm Hành Chi đâu phải chỉ vì uống rượu chứ.” Thanh Tĩnh Quân cầm một quyển sách, lười biếng ngả người vào ghế dựa, chỉ là một tư thế ngồi im một chỗ cũng cực kỳ anh tuấn phong độ: “Mấy ngày nay chỗ con luôn náo nhiệt, ta sợ người đi hết, Hành Chi sẽ cô đơn.”
Từ Hành Chi thấy lòng mình ấm áp, cười nói: “Sư phụ tốt quá.”
Nhạc Vô Trần quay sang cậu, dịu giọng nói: “Nói chuyện tốn sức, ngủ thêm một lát đi.”
Từ Hành Chi nghe lời nằm xuống nhắm mắt lại, không lâu sau thì chìm vào giấc ngủ nông.
Nhạc Vô Trần từ xa nhìn Từ Hành Chi ngủ trên giường, chỉ mong thời gian dừng lại, đồ nhi của y có thể vĩnh viễn vui vẻ thỏa mãn thế này, không có bất cứ buồn lo gì hết.
Mà lúc này, Cửu Chi Đăng đang đứng ngoài điện, ngửa đầu ngắm trăng.
Trong mấy ngày nay, ba đệ tử đứng đầu ba môn phái tự mình hầu hạ Từ Hành Chi, đương nhiên cậu ta không có tư cách đi vào thăm, cậu ta chỉ đi loanh quanh ngoài điện, thỉnh thoảng nghe thấy đôi ba câu sư huynh nói cười truyền qua từ vách tường, chỉ thế thôi cậu ta đã thấy yên tâm.
Từ lúc này, tiếng nói trong điện ngừng lại, Cửu Chi Đăng đoán sư huynh đang ngủ, định quay người đi thì đột nhiên nghe tiếng cười khẽ khàn khàn ở sau lưng.
Cửu Chi Đăng quay ngoắt đầu lại, nhìn thấy bóng người màu đen khoanh tay đứng đó mới thu hồi cảnh giác, cúi người vái chào: “Nhị sư huynh.”
“Ở đây nghe mấy canh giờ, êm tai không?”
Cửu Chi Đăng hơi đanh mặt lại.
Tạp La vượt qua thời kỳ vỡ giọng chết tiệt đã có được giọng nói khàn khàn mê người, ba phần xấu xa, hai phần khiêu khích, Cửu Chi Đăng không thích giọng nói không đứng đắn ấy nhưng người này là sư huynh, cậu ta phải tôn trọng hắn ta, vì thế cậu ta không nói gì, chỉ cúi đầu đứng đó.
Tạp La đi lên trước hai bước, khá là muốn gõ đầu thằng cháu của mình.
Mấy năm qua, hắn ta đã chứng thực người này trời sinh dị biệt, làm tu sĩ chính đạo mà làm không biết mệt, hắn ta nhìn vào mắt, tức trong lòng, chỉ tiếc mài sắt không nên kim.
Nhưng dù tệ đến đâu đi nữa, người này vẫn có quan hệ huyết thống với mình, nhìn cậu ta tự chuốc khổ vì tên họ Từ kia, Tạp La rất muốn dạy dỗ cậu ta một trận thay huynh trưởng của mình.
Lần này bị hắn ta bắt quả tang, Tạp La nói năng chẳng hề khách sáo.
“Trên đời này không chỉ có một mình Từ Hành Chi, đừng cứ dán mắt vào một mình hắn. Chăm chỉ tu luyện mạnh hơn tất cả.” Hắn ta trách mắng: “Mất hồn mất vía vì một người, đó là tiền đồ của ma đạo các ngươi à?”
Cửu Chi Đăng đã quen với việc bị người ta nhắc tới thân phận con cháu ma đạo, nhưng từ nửa câu đầu, cậu ta đã nghe ra ý tốt như có như không.
Dù trong mắt cậu ta trên đời này thực sự chỉ có một mình Từ Hành Chi, dù người khác có trăm nghìn ưu điểm thì họ đều có một khuyết điểm thống nhất, đó là “Không phải Từ Hành Chi”, nhưng Cửu Chi Đăng vẫn cảm nhận được sự quan tâm mà Tạp La dành cho mình.
Vì thế, cậu ta cúi người, nhận rời răn dạy: “Tạ ơn nhị sư huynh chỉ bảo.”
Trước kia Tạp La muốn phòng ngừa Nhạc Vô Trần nghi ngờ nên gần như không bao giờ giao lưu gì với đứa con tin này, bây giờ nói mấy câu với cậu ta, thấy người này có thái độ cung kính, không giống mấy thằng nhóc thiển cận dám coi thường mình, Tạp La có chút đắc ý.
Nhưng không để chút xíu đắc ý ấy của hắn ta tăng lên, Cửu Chi Đăng như nhớ ra gì đó, hỏi: “Sao nhị sư huynh biết đệ ở đây nghe mấy canh giờ rồi?”
Khuôn mặt u sầu của Tạp La bỗng đỏ trắng đan xen.
Vì sao hắn ta biết?
Chẳng phải tại tên Nhạc Vô Trần chết tiệt không biết đường về nhà sao
Trong mắt người khác, đãi ngộ mà Nhạc Vô Trần dành cho nhị đồ đệ La Thập Tam là ưu ái bậc nhất, ngủ cùng điện, sống chung, tay cầm tay dạy hắn ta cầm bút, tập viết, luyện kiếm, tĩnh tọa, một lòng một dạ muốn dạy hắn ta trở thành một trong số hàng nghìn hàng vạn đạo sĩ thối.
Để giành được sự tin tưởng của tên họ Nhạc ấy, Tạp La đều nghe theo hết, nhưng hắn ta có thể nhận ra từ đầu đến cuối Nhạc Vô Trần luôn đặt một bức tường ngăn cách giữa mình và hắn ta, càng khỏi nói tới chuyện Từ Hành Chi ngọc ngà đứng trước, tất cả mọi thứ hắn ta có được đều như lọt ra từ kẽ tay Nhạc Vô Trần.
Tạp La thật sự không hiểu nổi rốt cuộc Nhạc Vô Trần nghĩ gì. Tốt với hắn ta nhưng lại không tốt hoàn toàn, thà Nhạc Vô Trần cứ luôn răn dạy hắn ta còn thoải mái hơn.
Nổi giận trở về điện Thanh Trúc, Tạp La đứng ngồi không yên, chờ một lúc lâu mới thấy Nhạc Vô Trần về điện.
Y lại uống rượu, ngửi mùi có vẻ là “Túy Tây Hồ” thượng hạng. Y chống trán ngồi xuống giường, cả người ngập hương thơm của rượu ngon mát lạnh ngọt ngào.
Tạp La thấy y có vẻ say, nghĩ, y say rồi, bây giờ giết y chẳng phải giúp y làm một con ma say hạnh phúc sao, thôi không giết vẫn hơn.
Hắn ta tự giác đi tới, cởi áo ngoài ra cho Nhạc Vô Trần, tháo giày, đi lấy nước nóng, dùng thùng gỗ đựng nước, rửa chân cho Nhạc Vô Trần.
Tạp La vẫn kiên định cho rằng, hầu hạ bên cạnh Nhạc Vô Trần mới có thể tìm được nhiều nhược điểm của y hơn, vì thế mấy việc trước kia phải nghiến răng nghiến lợi mà làm thì bây giờ hắn ta đã làm rất thuận tay.
Nhạc Vô Trần uống say chuếnh choáng là lúc y ngoan ngoãn rất, không ồn không gây chuyện, hiền hòa như còn mèo nhỏ ăn no căng bụng, dễ bị thao túng nhất, y dựa hờ vào giường, để mặc Tạp La bỏ chân mình vào nước nóng.
Y khẽ “Ưm” một tiếng: “Nóng.”
Tạp La vừa thầm mắng y lắm chuyện vừa rót nước lạnh đã chuẩn bị trước đó vào: “Thế nào?”
Nhạc Vô Trần im lặng nhưng chưa ngủ, híp mắt lại nhìn vào nơi nào đó trong điện, tầm mắt mơ màng không có tiêu cự.
Tạp La biết lúc này Nhạc Vô Trần vẫn còn năng lực suy nghĩ, hắn ta ngồi chéo bên giường, ngoài cười nhưng trong không cười hỏi Nhạc Vô Trần: “Sư phụ lại đi tìm Từ sư huynh sao?”
“Ừ. Hắn đang dùng Cửu Trùng Đan điều dưỡng cơ thể, vẫn chưa thể uống rượu. Nhưng ta thèm.”
Từ xưa đến nay Nhạc Vô Trần chưa bao giờ kiêng dè nói mình thèm rượu, không giống phần lớn đạo quân bình thường, có tí danh tiếng là xấu hổ khi thừa nhận sở thích của mình, cố gắng giả vờ làm một thánh nhân lạnh lùng thoát tục.
So ra, người này có tấm lòng lương thiện, ngây thơ đơn thuần đến mức hơi buồn cười.
Nhưng mỗi lần Tạp La cảm thấy y ngây thơ đều nghĩ đến trận chiến ở cánh rừng trên núi Hoài Ninh.
Nhạc Vô Trần phát điên, đỏ mắt, một lòng muốn đẩy hắn ta vào chỗ chết và tiên quân áo trắng uống rượu say rồi ngâm chân, cầm bầu rượu rỗng yên lặng ngây người ở trước mặt hắn ta cứ như hai người khác nhau.
Tạp La cũng cảm thấy mình hơi kỳ lạ.
Người đi qua tầm mắt, trái tim hắn ta chỉ có một mình hắn ta, tất cả người trên đời đều như thịt sống, không ai lọt vào mắt hắn ta, vì thế hắn ta không thể quen với việc lúc nào trong lòng mình cũng nhớ mong một người khác.
Nhưng nếu người ấy là Nhạc Vô Trần, hắn ta cảm thấy dường như không phải không thể chịu đựng được, dù sao cũng là người đánh hắn ta rớt khỏi tầng mây, đáng để nhớ.
“Đi cái là đi cả một ngày luôn?” Tạp La tiếp tục hỏi với vẻ mập mờ.
“Ngươi là trẻ con à?” Nhạc Vô Trần híp mắt khẽ cười: “Lớn từng đấy rồi còn cần người khác ở cùng.”
Tạp La: “…”
Hắn ta rất không vui: “Về rồi uống rượu thì sao? Hơn nữa, người uống say, tên họ Từ kia chăm sóc người hay ta chăm sóc người?”
Lời vừa ra khỏi miệng, Tạp La thấy mình hệt như các bà các dì càm ràm.
Nhạc Vô Trần không đáp, hơi cúi đầu xuống, trông như đang nghiêm túc nghe dạy.
Dáng vẻ hiền dịu này hòa tan không ít khó chịu bực bội trong lòng Tạp La, hắn ta nâng chân Nhạc Vô Trần trong thùng gỗ lên, dùng vải nhung lau sạch, đặt y lên giường rồi ra ngoài đổ nước.
Có lẽ tìm vui trong cái khổ, gần đây hắn ta tìm thấy chút thích thú trong lúc làm mấy công việc linh tinh.
Khi hắn ta rời khỏi điện, Nhạc Vô Trần thiết lập một lớp bảo vệ bằng linh lực trên người mình, sau đó gối lên cánh tay ngủ say.
Nhạc Vô Trần nằm mơ.
Trong mơ, y và Khê Vân dẫn Hành Chi và các đệ tử Phong Lăng ra ngoài đạp thanh, trông Hành Chi chỉ độ mười sáu mười bảy tuổi, Cửu Chi Đăng và Mạnh Trọng Quang đi bên cạnh Hành Chi đều tầm tuổi đấy. Có vẻ Cửu Chi Đăng và Mạnh Trọng Quang cãi vã gì đó, Mạnh Trọng Quang nhanh chân chạy từ đằng sau lên trước, Cửu Chi Đăng thì im lặng không nói gì đuổi theo.
Khê Vân quát hai người họ không ra thể thống gì nhưng không truy cứu, Hành Chi ở đằng sau ôm bụng cười vang: “Trọng Quang, cẩn thận đụng phải sư phụ!”
“Tiểu Đăng, cẩn thận dưới chân!”
Dây buộc tóc xanh lam nhạt của hai thiếu niên tung bay theo gió, như cây tảo dài trong nước. Rất nhanh sau đó bóng dáng bọn họ đã biến mất, như hòa tan theo gió.
Nhạc Vô Trần cầm bầu rượu ngọc, uống một ngụm rượu, chỉ thấy trong lòng an yên, không phát hiện ra chẳng biết từ bao giờ trời đất đã đột nhiên yên tĩnh lại.
Y đưa bầu rượu ra sau: “Hành Chi này.”
Mãi không có ai nhận.
Y quay đầu lại, Hành Chi không còn, quay đầu lại lần nữa, lại chẳng thấy Khê Vân đâu.
Lúc này Nhạc Vô Trần mới phát hiện ra một mình y bước vào vùng sương mù mịt. Y dừng chân, nhìn xung quanh. Cây cỏ hoa đá, núi sông khe suối, y đều không nhận ra chúng, y không tìm thấy đường quay lại.
Ngày tháng yên bình như hoa mai đón mưa xuân ở Giang Nam đi đâu rồi? Những người y quý trọng đi đâu hết rồi?
Trong mơ màng, Nhạc Vô Trần nghe có người đang gọi mình: “Sư phụ… Sư phụ!”
Ai vậy? Hành Chi sao?
Nhạc Vô Trần vui vẻ, vừa mới vùng vẫy mở mí mắt đau nhức ra thì có một âm thanh nổ tung ngay bên tai: “Nhạc Vô Trần!”
Tất cả tinh thần quay về vị trí chỉ trong nháy mắt, Nhạc Vô Trần cảm thấy trên người và trên mặt ươn ướt.
Trời đã tối mịt, bóng cây trúc chìm trong ánh trăng lành lạnh như nước, hắt lên cả giường, Tạp La mặc đồ ngủ quỳ bên giường, sốt sắng đến mức quên cả tôn xưng: “Này, người sao thế?”
Nhạc Vô Trần không sa sút, im lặng ngồi đó, hai tay buông xuống, gập chân lại, biến mình thành một bức tượng điêu khắc. Nhưng vệt nước đan xen trên má trên trán y, phủ thêm vẻ mặt yếu đuối quá mức khiến người ta thương xót.
Nhạc Vô Trần như thế khiến trái tim Tạp La rối loạn.
Y bị làm sao vậy? Rốt cuộc đã mơ thấy gì? Vì sao lại đau buồn đến mức này?
Tạp La nhanh chóng ý thức được đó không phải việc mình nên nghĩ, ép suy nghĩ của bản thân quay lại đại nghiệp báo thù.
Ban ngày không giết được, say rượu không giết được, ngủ không giết được, bây giờ tinh thần y đang hỗn loạn, là lúc để ra tay!
Tạp La đè nén tâm lý chống cự khó nói rõ trong lòng xuống, quỳ một chân bên giường, chậm rãi tới gần Nhạc Vô Trần: “Sư phụ, không sao đâu. Người mơ thấy ác mộng thôi, tỉnh dậy là được rồi.”
Giọng Tạp La vốn hoa lệ tự cao, lúc này nói thật nhỏ, nghe như âm sắc của đàn tranh thượng hạng, khiến người ta thư thái, cũng có thể khiến người ta chậm rãi buông lỏng cảnh giác.
Hắn ta dịch lên trước thêm mấy tấc, định mạo hiểm một lần, ôm lấy người đang hoảng hốt vì giấc mơ để an ủi y, đến lúc đó người ấy vùi trong lòng hắn ta, lo gì không tìm được cơ hội ra tay chứ?
Tạp La đã tính đâu vào đấy rồi, không ngờ Nhạc Vô Trần lại giành trước một bước, ôm hắn ta vào lòng!
Nhạc Vô Trần thật sự quá hoảng loạn, y cần một chứng cứ xác thực để chứng minh mình đã về tới nhân gian, dù người ấy là Tạp La cũng không sao.
Nhưng Nhạc Vô Trần không quên Tạp La là một con thú hoang khó thuần hóa.
Y giữ hắn ta lại nhiều năm như thế, hao tổn tâm sức, dày công dạy dỗ, chỉ vì muốn sửa lại bản tính của hắn ta, để nó phát huy tác dụng vào tương lai xa xôi, bù đắp cho thiếu sót to lớn.
Nhưng chỉ đến đó thôi, Nhạc Vô Trần vẫn không dám tin chắc người này có mất trí nhớ thật hay không, cũng không dám chắc hắn ta đã cải tà quy chính thật không.
Nhân cơ hội này kiểm tra thử, cũng không phải không được.
Lúc y ôm lấy Tạp La, đầu ngón tay đặt vào gáy Tạp La như có như không.
Nếu hắn ta dám làm bừa dù chỉ chút xíu, Nhạc Vô Trần chắc chắn sẽ phá hủy kinh mạch toàn thân Tạp La chỉ trong nháy mắt.
Nhưng người trong lòng không làm gì thêm cả.
Va vào lồng ngực ấm áp, hít lấy hương thơm ấm nóng thoang thoảng trên người này ở khoảng cách gần, Tạp La nhất thời choáng váng, trái tim trong lồng ngực đập mạnh thình thịch, dã tâm bừng bừng tụt về không ngay tức khắc, tay chân thon dài rắn rỏi ngày thường bỗng như biến thành vùng da nhột, bị người trước mặt bắt chẹt một cách dễ dàng, cả người đều thấy ngứa ngáy.
Tạp La nằm trong lòng Nhạc Vô Trần, cứng đờ như sắt một lúc lâu mới phát ra một tiếng rên nặng nề.
Nhạc Vô Trần thấy hắn ta không có sát ý mới buông tay ra, sau khi nhận được an ủi bởi kết quả kiểm tra lần này, y nhỏ giọng hỏi hắn ta: “Sao thế?”
Tạp La đau đến mức nghiến răng: “Chân, chân của ta…”
Mặc dù đã thành niên rồi nhưng cơ thể hắn vẫn phát triển như mấu trúc, nửa đêm chuột rút đau chân là chuyện bình thường, lúc này lại vùi trong lòng Nhạc Vô Trần với tư thế khó chịu một lúc lâu, trọng lượng dồn vào chân không đều nên chọn đúng lúc này mà co rút.
Thấy khuôn mặt tuấn tú của Tạp La nhăn nhó hết cả lại, chống vào mép giường không dậy nổi, Nhạc Vô Trần kéo hắn ta nằm lên giường mình, nắm chặt bụng chân chệch vị trí của hắn ta, nhẹ nhàng xoa bóp nó.
Thấy Tạp La nhe răng trợn mắt muốn tránh, Nhạc Vô Trần dịu giọng nói: “Đừng nhúc nhích, xoa một lúc là khỏi.”
Tạp La không nhúc nhích thật.
Ngón tay Nhạc Vô Trần vừa mềm mại vừa có lực, xoa bóp mấy cái đã khiến cơ bắp co giật của hắn ta dịu xuống.
Trên trán Tạp La có ít mồ hôi, há miệng muốn nói gì đó, Nhạc Vô Trần khẽ cười hỏi: “Vẫn đang cao lên cơ à?”
Đây vốn là một câu hỏi rất đỗi bình thường nhưng Tạp La nghe lại thấy có ý gì khác.
Đúng vậy, hắn ta đang phát triển, cao hơn, bây giờ đã cao hơn cả Nhạc Vô Trần rồi, có lẽ qua một thời gian nữa, hắn ta có thể quay lại chiều cao mười mấy năm trước, có thể dễ dàng ôm người trước mặt vào lòng…
“Trên đất lạnh, chuột rút vừa khỏi, không thể bị lạnh.” Nhạc Vô Trần không để ý hắn ta đang suy nghĩ lung tung, ra lệnh đuổi khách đầy nhã nhặn: “Ta lấy thêm chăn đệm cho ngươi.”
Bị việc này chen ngang, Tạp La quên mất không hỏi Nhạc Vô Trần mơ thấy gì.
Tạp La nghĩ rằng Nhạc Vô Trần có tâm sự gì đó không thể cho người khác biết, nhưng từ đêm đó, Nhạc Vô Trần quay lại vẻ bình thường, gặp biến không sợ, dịu giọng nói cười, vẫn là Thanh Tĩnh Quân trong lòng hay bên ngoài đều không vướng một hạt bụi.
Nhưng Tạp La nhìn y, lúc nào cũng nghĩ tới gương mặt đầy vết nước của y, thầm suy đoán rốt cuộc đó là mồ hôi hay nước mắt.
Nhạc Vô Trần không biết suy nghĩ của hắn ta, cũng không muốn đoán già đoán non.
Sau khi hàn độc của Từ Hành Chi khỏi hẳn, cuộc thi Thiên bảng năm năm một lần lại đến. Nhạc Vô Trần vô cùng phấn khởi tham dự, trước khi trận đấu bắt đầu, y đưa ra một đề nghị trước nay chưa từng có, muốn đánh cược linh thạch với các tiên quân, tôn trưởng ngồi đó, cược Từ Hành Chi có thể giành được vị trí đứng đầu Thiên bảng lần này hay không.
Mặc dù kiến nghị mà Thanh Tĩnh Quân hào hứng nói ra không hợp với quy củ nhưng được cái thú vị, các quân trưởng khác sôi nổi cược theo, một bên cược Khúc Trì, một bên cược Từ Hành Chi, cũng có người góp vui, cược cho Chu Huyền và Chu Bắc Nam.
Nhưng điều khiến các quân trưởng giật mình không thôi là Nhạc Vô Trần vung tay cược tận ba trăm linh thạch hạng nhất, nếu tính theo giá trên chợ ở trần gian thì chỗ ấy tương đương với ba, bốn thành trì.
Phù Diêu Quân không nhịn được nhắc nhở: “Thanh Tĩnh Quân, ba trăm viên nhiều quá rồi đó, cất bớt đi.”
Nhạc Vô Trần mỉm cười: “Ta chỉ có đống linh thạch này thôi, nếu không ta còn cược thêm nữa.”
Minh Chiếu Quân – sư phụ của Khúc Trì hiếm khi bị vẻ nắm chắc phần thắng của Nhạc Vô Trần khơi dậy lòng hiếu thắng: “Vô Trần, ngươi tin chắc đồ đệ ngươi sẽ thắng đồ đệ ta thế cơ à?”
Nhạc Vô Trần ôm bầu rượu cười: “Đương nhiên ta tin đồ đệ mình rồi.”
Minh Chiếu Quân đặt cược cho Khúc Trì một trăm linh thạch hạng nhất, mấy quân trưởng khác cũng cược mười mấy, mấy chục viên, bên phía Khúc Trì nhanh chóng góp được hơn bốn trăm viên linh thạch.
Người cược Khúc Trì thắng nghĩ rất chu đáo: Đầu tiên, Khúc Trì đã thắng hai lần liên tục rồi, ra chiêu ổn định vững vàng, phần thắng nhiều hơn; thứ hai, ba trăm linh thạch hạng nhất của Thanh Tĩnh Quân có chất lượng thượng hạng trong thượng hạng, thật sự rất hấp dẫn, nếu được chia một phần thì chẳng phải quá hay rồi sao?
Nhưng khi Từ Hành Chi ở trên lôi đài phóng khoáng xòe mặt quạt Bút nhàn rỗi có mấy chữ “Thiên hạ ngày nay, ngoài ta còn ai” ra, mấy người âm thầm gảy bàn tính đều lần lượt đau lòng cho số linh thạch mình mang ra cược.
Nhạc Vô Trần cất cẩn thận số linh thạch mình thắng được đi, nở nụ cười an ủi từ tận đáy lòng.
Danh sách sính lễ của Hành Chi lại có thêm vài món đồ tốt rồi.
Bây giờ, đối với Nhạc Vô Trần mà nói, không gì sánh bằng thế gian yên bình, tương lai đầy hi vọng.
Nhưng chuyện ở thế gian không thể bất biến. Năm sau, một con cửu vĩ xà trốn ra khỏi lao tù, ẩn mình trong núi sâu, có khả năng gây hại bất cứ lúc nào, vì thế mà bốn môn phái đều chấn động, lập tức cử đệ tử đứng đầu bốn môn phái đi truy bắt và tiêu diệt.
Vốn dĩ, Quảng Phủ Quân Nhạc Khê Vân định dẫn dắt các đệ tử đi đánh yêu quái nhưng không ngờ sau một cuộc nói chuyện, người dẫn đội lại biến từ Nhạc Khê Vân thành Nhạc Vô Trần.
Theo ký ức của Nhạc Vô Trần, ở kiếp trước, cửu vĩ xà lẩn trốn tìm được một người bạn, hai con rắn quyết định dừng chân ở núi Bình Định, đào hang đi trong lén lút, giao cấu song tu làm cho tu vi của cả hai đều tăng mạnh, do đó nổi lên ý nghĩ làm hại sinh linh trong thành.
Nhạc Vô Trần che giấu hơi thở, tới thăm núi Bình Định trước nhưng không tìm thấy bóng dáng hai con nghiệt súc đó, trong lòng đã có kết quả.
Sống lại một đời, có rất nhiều chuyện y không thể can thiệp vào được.
Nếu y không hề tìm kiếm gì mà đi thẳng tới núi Bình Định, các đệ tử đi theo ắt sẽ nghi ngờ. Hơn nữa, cửu vĩ xà rất xảo quyệt, có thể tự do co rút hoặc phóng to cơ thể, một khi chúng nó nhận ra điều gì đó không đúng, nhân lúc song tu chưa xong, cả hai lén chuồn mất, bọn họ sẽ mất ưu thế dẫn đường, chỉ đành đuổi theo hai con vật đó chạy tán loạn khắp nơi.
Sau khi suy nghĩ cặn kẽ, Nhạc Vô Trần quyết định tất cả đều tuân theo kiếp trước, cho các đệ tử đuổi theo dấu vết cửu vĩ xà chạy trốn để lại ở dọc đường, để mặc cửu vĩ xà tu luyện cho chúng lơ là cảnh giác.
Lần này, chắc chắn y sẽ không để con nghiệt súc ấy được như ý muốn, chắc chắn sẽ không để Hành Chi độ kiếp trong mạo hiểm.
Chỉ có bốn mươi chín đạo thiên lôi Nguyên anh, Nhạc Vô Trần này vẫn chịu được.
Mười ngày sau, núi Nguyên Nhân, Thưởng Phong Quan.
Mây vờn giữa núi, ánh nắng đang độ rực rỡ nhất, là cảnh tượng vạn sự thành công, Nguyên Như Trú đứng trước cổng núi, tự tạo nên phong cảnh đẹp đẽ, các đệ tử của bốn môn phái nối đuôi nhau đi ra, do Khúc Trì dẫn dắt, lần lượt từng người ngự kiếm bay đi.
Nguyên Như Trú kỹ tính, nhận trách nhiệm đi cuối cùng. Sau khi kiểm kê xác nhận số lượng các đệ tử đi theo không có gì sai sót xong, nàng đang định đuổi theo thì đột nhiên nghe thấy có người ở phía sau gọi mình: “Nguyên sư muội.”
Nàng vừa nghe giọng nói này là biết đó là ai ngay, bèn khẽ cười nhìn lại: “Từ sư huynh.”
Đương nhiên Từ sư huynh này không phải Từ sư huynh kia.
Dù sao Từ Bình Sinh và Từ Hành Chi cũng là huynh đệ ruột, mấy năm qua bên nhau sớm chiều, khó tránh khỏi có những điểm tương đồng, không cần hai người nói thẳng, người khác đều có thể đoán ra quan hệ của họ. Đương nhiên Nguyên Như Trú cũng không ngoại lệ.
Từ Bình Sinh thân là huynh trưởng, mặc dù không khí phách tiêu sái như vị Từ sư huynh chân chính kia, nhưng cậu ta hơn ở kiên cường sạch sẽ, hệt như tùng bách, trên người có hương thơm lành lạnh tĩnh mịch của lá thông, âm thầm dẫn tới không ít nữ đệ tử trong Phong Lăng lặng lẽ mến mộ.
Người xưa giờ luôn lạnh nhạt kiệm lời đối diện với nàng lại hơi bối rối, mắt lóe lên, rụt rè nói: “Sư phụ bảo ta dặn riêng Nguyên sư muội một câu, chú ý an toàn. Nếu gặp phải cửu vĩ xà thì đừng ham chiến, mau chóng về bẩm báo.”
“Ta biết chừng mực.” Nguyên Như Trú nói: “Nhờ Từ sư huynh chuyển lời với Thanh Tĩnh Quân, núi Bình Định cách nơi này không xa, mà chắc gì cửu vĩ xà đã trốn trong núi Bình Định, chưa đến nửa ngày ắt sẽ quay về, xin Thanh Tĩnh Quân không cần lo lắng.”
Từ Bình Sinh im lặng gật đầu.
Nguyên Như Trú cho rằng cậu ta đã hoàn thành nhờ vả của sư phụ, bèn nói: “Nếu huynh không còn chuyện gì khác thì ta đuổi theo Khúc sư huynh và mọi người đây.”
Từ Bình Sinh hơi cuống lên: “Ta còn một câu muốn nói.”
Thiếu nữ quay đầu lại một lần nữa.
“Chú ý an toàn.” Từ Bình Sinh kìm nén đỏ bừng cả mặt mới khó khăn rặn ra được nửa câu sau: “Đây là ta nói.”
Nguyên Như Trú hơi ngớ người rồi nhe răng khẽ cười, khách sáo lịch sự cúi người cảm ơn: “Cảm ơn Từ sư huynh.”
Tiễn Nguyên Như Trú đi xong, Từ Bình Sinh quay về với cơ thể căng cứng, vuốt lồng ngực thở phào không ngừng.
Nói ra rồi. Nói ra thật rồi.
Từ Bình Sinh không nhịn được cười, lại biết không được như thế bèn cố gắng hết sức ghìm khóe miệng xuống, nhưng trong mắt đong đầy ánh mặt trời, chiếu cho gương mặt trang nghiêm lạnh như băng của cậu ta có thêm đôi phần tươi sáng.
Cậu ta mừng rỡ đi về sân sau của Thưởng Phong Quan, định báo lại việc Khúc Trì và Nguyên Như Trú đã đi với Thanh Tĩnh Quân, ai ngờ lúc cậu ta đi vòng qua một cái đình nhỏ, đúng lúc nhìn thấy một người đang ngồi trên đầu tường sân sau, lặng lẽ lật người vào bên trong Thưởng Phong Quan.
Ban đầu Từ Bình Sinh tưởng đó chỉ là một tên trộm xui xẻo liều lĩnh, nhưng từ trước đến giờ cậu ta nhạy cảm lại tinh mắt, nhìn lại lần nữa thì ngạc nhiên nhận ra màu mắt của kẻ kia khác thường!
Người của ma đạo?!
Người kia không dám vận linh lực, cực kỳ chăm chú hì hục trèo tường, lại thêm Từ Bình Sinh đi một mình, có một ngôi đình nhỏ che chắn, vì thế người kia không phát hiện ra Từ Bình Sinh.
Đắm mình trong sự chỉ dạy của Thanh Tĩnh Quân nhiều năm, tu vi của Từ Bình Sinh đã đạt đến Kim đan cấp năm, gặp phải điều khác thường, cậu ta đã có khả năng tự mình đảm đương, vì thế cậu ta không trốn trong bóng tối mà bước ra, gằn giọng quát: “Ngươi là ai?”
Thanh niên mặc đồ đen giật mình, suýt thì ngã từ trên đầu tường xuống: “Ôi mẹ ơi.”
Hắn hoảng hốt nằm bò trên tường, tới khi tìm thấy bóng dáng thon dài của Từ Bình Sinh rút kiếm đứng đó, hắn hùng hồn ngang nhiên suỵt với cậu ta.
Từ Bình Sinh bị hắn suỵt mà sững sờ, không hiểu tại sao người này lại có mặt mũi không bỏ chạy.
Thanh niên đang ngồi trên tường theo kiểu mỗi chân ở một bên tường, tư thế không lịch sự lắm nhưng hắn chẳng cần thể diện, dùng một chân giẫm vào mép khe nhỏ giữa gạch xanh đột nhiên xuất hiện trên bức tường bên này, hai khuỷu tay chống lên mặt tường, mắt phượng xanh xám nhìn chằm chằm Từ Bình Sinh, cười nói: “Vị tiểu ca này, tạo điều kiện tí đi.”
Từ Bình Sinh rút hết kiếm Thanh Phong ra khỏi vỏ, trừng mắt khinh thường: “Thằng nhóc ma đạo kia, ngươi tới đây vì mục đích gì?”
Người trên tường thẳng thắn đáp lại: “Tới tìm một vị kiếm hữu ôn chuyện xưa.”
“Kiếm hữu?” Từ Bình Sinh cười khẩy, chỉ coi tên ma đạo đó không thành thật, nói dối mà hạ bút thành văn.
“Người mặc quần áo giống ngươi ấy. Trông cũng hơi giống ngươi.” Thanh niên coi bức tường thành cái giường hơi chật, nằm nhoài trên đó chống cằm cười nói: “Tên là Từ Hành Chi, ngươi có biết hắn không?”
Từ Bình Sinh: “…”
Cậu ta nổi gân xanh lên: “Ngươi và hắn là kiếm hữu?”
Thanh niên nói một cách tự nhiên: “Tiểu ca quen hắn sao, có thể dẫn đường cho ta không?”
Dù đã ấn thằng nhóc không hiểu chuyện kia xuống quất cho mười mấy phát chổi lông gà trong lòng rồi, vẻ mặt Từ Bình Sinh vẫn nặng nề như nước: “Ta là huynh trưởng của hắn, sao ta không biết hắn có kiếm hữu nào như ngươi?”
Mắt thanh niên sáng lên, nửa người trên lười biếng nhoài trên đầu tường hơi nhổm lên: “Ơ, là huynh trưởng à! Hành Chi hay nhắc đến ngươi với ta lắm. Huynh trưởng, lần đầu gặp mặt, ta là Tạp Tứ. Món quà mọn không đủ thể hiện hết lòng thành.”
Từ Bình Sinh đột nhiên thấy có gì đó vụt qua mắt, vô thức túm lấy nó, giữa ngón tay có thêm một xâu hoa ngô đồng màu tím nhạt.
Từ Bình Sinh tức giận, vứt hoa đi: “Gọi linh tinh gì đấy? Ai là huynh trưởng của ngươi?”
Tạp Tứ mặt dày: “Hành Chi là kiếm hữu của ta, đương nhiên huynh trưởng của hắn cũng là huynh trưởng của ta rồi… Huynh trưởng ơi, Hành Chi có ở đây không, ta muốn tìm hắn đọ kiếm.”
Giọng điệu Từ Bình Sinh lạnh lùng cứng rắn: “Không có ở đây.”
Người này luôn miệng gọi Hành Chi, Hành Chi, sao Hành Chi chưa bao giờ nói gì tới chuyện cậu có một người bạn không thuộc chính đạo mặt dày thế này với cậu ta?
Xem ra tên nhóc này giỏi quá rồi, chuyện này mà cũng dám tự ý làm chủ, che giấu cậu ta?
Nghe nói Từ Hành Chi không ở đây, Tạp Tứ hơi thất vọng nhưng khi hắn nhìn sang kiếm Thanh Phong trên tay Từ Bình Sinh, mắt hắn bỗng sáng lên, như một chàng lãng tử phong lưu nhìn thấy mỹ nhân tuyệt thế: “Kiếm tốt.”
Từ Bình Sinh: “…”
Ánh mắt đưa tình ấy của hắn khiến Từ Bình Sinh rợn người, cậu ta nắm chặt chuôi kiếm nhìn xung quanh, muốn nhân lúc tên điên khùng này chưa bị phát hiện, đuổi hắn đi, ai ngờ lúc cậu ta nhìn lại phía tường thì Tạp Tứ đã mất dạng.
Trong lúc cậu ta ngạc nghiên ngờ vực, giọng Tạp Tứ vang lên ở nơi gần sát cậu ta: “Ôi chao, đá Mạc Tà thượng hạng thật này!”
Không dông dài với người này thêm câu nào, Từ Bình Sinh vung kiếm đâm về phía phát ra âm thanh, cổ tay bị giữ lại giữa không trung!
Tạp Tứ nắm chặt tay phải cậu ta, nâng kiếm cậu ta lên, hai mắt sáng bừng, thân thiết nói: “Huynh trưởng ơi, ngươi lấy đá Mạc Tà này ở đâu thế, có thể cho ta biết không?”
Từ Bình Sinh giận dữ, cố gắng giật cổ tay ra nhưng giằng mấy lần không được, cậu ta bèn nắm tay trái lại đấm Tạp Tứ, mấy lần tấn công đều bị hắn hời hợt dùng cùi chỏ đỡ được, thậm chí còn nhân lúc phòng thủ của Từ Bình Sinh bị hổng mà bỉ ổi sờ tóc cậu ta.
Từ Bình Sinh tức đau cả phổi, không quan tâm có đẹp hay không nữa, nhấc chân lên đá vào xương cẳng chân ở mặt trước của Tạp Tứ.
Tạp Tứ không phòng bị bên dưới, kêu một tiếng rồi buông tay ra, ôm chỗ đau nhảy lên mấy lần, hít sâu: “Này này, ngươi thuộc họ con lừa đấy à?”
Từ Bình Sinh chưa bị xúc phạm như thế bao giờ, cáu đến mức không muốn giữ phong phái quân tử lạnh lùng nữa, mặt hơi ửng đỏ, không dám hét to quá, sợ khiến người khác chú ý, đến lúc đó Hành Chi không giải thích rõ được, cậu ta chỉ đành gầm nhẹ: “Tên khốn nhà ngươi!”
“Hai người là huynh đệ ruột à?” Tạp La cũng nhỏ giọng oán giận: “Chạm cái cũng không được, yếu ớt. Hành Chi đâu như thế.”
Hai mắt Từ Bình Sinh tối sầm.
Cậu ta? Cậu ta yếu ớt?
Từ Bình Sinh nổi lên nỗi xúc động muốn đuổi đánh Tạp Tứ một trận tơi bời, không kiềm chế nổi, nhưng cậu ta biết làm ầm lên không phải chuyện tốt, vì thế đuổi Tạp Tứ đi như xua gà: “Hành Chi không ở đây, sư phụ ta Thanh Tĩnh Quân thì có đó, nếu ngươi tiếp cận bừa bãi, ta sẽ mời sư phụ ra nói chuyện với ngươi!”
Tạp Tứ nghẹn lời.
Thanh Tĩnh Quân quả thực là thiên tài kiếm tu hiếm có trên thế gian nhưng Tạp tứ sống bên cạnh thúc thúc Tạp La từ nhỏ, dù chưa từng chịu ơn sát thần ấy bao nhiêu nhưng vẫn có nửa ơn thầy trò.
Tạp La bỏ mạng dưới tay Nhạc Vô Trần là lẽ thường về thắng bại của nhà binh, Tạp Tứ không đến nỗi hận Nhạc Vô Trần nhưng không muốn chủ động nhảy tới trước mắt y để tự chuốc khổ.
Hắn xoa cẳng chân, tập tễnh trèo lên tường lần nữa, trước khi đi còn quay đầu lại, lưu luyến nói: “Lần sau chúng ta đấu một trận đi. Ta muốn thử đánh chém với bảo kiếm được rèn từ đá Mạc Tà sẽ thế nào…”
Từ Bình Sinh vô cùng hung dữ cắt ngang lời hắn: “Cút!”
Đuổi thằng nhóc ma đạo đáng ghét như con ruồi xanh đi xong, Từ Bình Sinh không vội cất kiếm vào vỏ mà giơ kiếm Thanh Phong lên trước mặt, cẩn thận xoa vuốt vuốt xem xét một lượt.
Thanh kiếm này do Từ Hành Chi luyện ra từ một tảng đá.
Lúc đó, Từ Hành Chi bưng kiếm đến gặp cậu ta không hề nhắc đến giá trị của đá ban đầu, chỉ khen ngợi qua loa: “Huynh trưởng, huynh thấy thế nào? Đẹp chứ. Đệ làm bội kiếm cho huynh, đảm bảo khí phách hơn các đệ tử khác!”
Nghĩ tới thanh niên hăng hái hớn hở ấy, trái tim Từ Bình Sinh vừa chua xót vừa mềm nhũn, trân trọng nhét lưỡi kiếm vào vỏ, đổi hướng đi tới gian điện nghỉ ngơi của Từ Hành Chi.
Chừng một khắc sau.
Từ Bình Sinh sải bước đi ra khỏi điện của Từ Hành Chi, dường như còn chê mức độ khuyên bảo của mình chưa đủ, xoay người lại nhấn mạnh lần nữa: “Sau này bớt qua lại với kẻ không đứng đắn ấy đi!”
Từ Hành Chi cúi đầu đứng nghiêm, ỉu xìu đáp: “Vâng.”
Lúc này Từ Bình Sinh mới cất vẻ mặt nghiêm khắc đi, cất bước đi ra, vừa đi vừa thấy khó hiểu.
Rõ ràng muốn nói rõ mặt lợi mặt hại với Hành Chi, bảo cậu sau này không nên giao du với kẻ lỗ mãng ấy là được, sao cuối cùng lại thành dạy dỗ cậu rồi?
Từ Hành Chi đưa mắt nhìn theo bóng lưng Từ Bình Sinh biến mất, xoa ngực, than thở từ tận đáy lòng: “Sợ chết đi được. Tạp Tứ đần quá thể, bị sư phụ phát hiện thì thôi đi, sao lại bị huynh trưởng bắt được chứ?”
Mạnh Trọng Quang và Cửu Chi Đăng đều ở trong điện của Từ Hành Chi. Mạnh Trọng Quang ân cần rót một chén nước, kéo Từ Hành Chi ngồi xuống, nói mấy lời thân thiết an ủi cậu.
Còn Cửu Chi Đăng nhìn bóng lưng Từ Bình Sinh đi khỏi đó, cảm thấy ngạc nhiên vô cùng.
Bình thường tam sư huynh không phải người thích chưng diện, sao trên đầu lại cài một đó hoa ngô đồng nở rộ chứ?
Bên khác.
Từ Bình Sinh khó hiểu đi về phía trước, lúc đi ngang qua hai gian điện nhỏ gần đó, ánh mắt tình cờ xoay chuyển, cậu ta nhìn thấy Chu Bắc Nam đứng ở trên hành lang trước điện của mình, Chu Bắc Nam quay lưng về phía cậu ta, cúi người nói chuyện với một người khác.
Hai người rất gần nhau, hệt như đang làm chuyện liên quan đến lưỡi!
Chu Bắc Nam thân hình cao lớn, mà người đối diện lại nhỏ bé hơn hẳn so với cậu ta, bị che kín hết, Từ Bình Sinh chỉ có thể dựa vào thắt lưng xanh nhạt bị gió thổi tung để đoán có lẽ người đó là đệ tử của Thanh Lương Cốc.
Từ Bình Sinh lập tức nghĩ ra, lần này ra ngoài đuổi bắt cửu vĩ xà, trừ Nguyên Như Trú ra, còn có một nữ đệ tử dược tu của Thanh Lương Cốc đi cùng, mặt mũi khá xinh xắn.
Liên tục đụng phải chuyện lạ, Từ Bình Sinh chỉ coi hôm nay mình kỵ ra ngoài, cậu ta bèn giả làm người mù, bước nhanh chân hơn, đi qua gian điện nhỏ.
Cậu ta đi được mấy bước thì có một nữ đệ tử thanh tú mặc áo xanh bưng ba bốn lọ thuốc đi tới từ phía đối diện.
Từ Bình Sinh bỗng dừng lại, lẳng lặng nhìn cô gái đó, vẻ mặt biến đổi khó lường.
Cô gái thấy cậu ta dừng bước thì không nghĩ gì nhiều, cung kính chào hỏi theo đúng lễ nghĩa: “Từ sư huynh.”
Mi tâm Từ Bình Sinh bỗng giật giật.
Chỉ có hai nữ đệ tử, một người vừa được mình tiễn đi, người còn lại đang đứng trước mặt mình.
Thế rốt cuộc đệ tử Thanh Lương Cốc thân mật với Chu Bắc Nam là ai?
Trên hành lang trước điện của Chu Bắc Nam, Lục Ngự Cửu đứng sát vào tường, nghe tiếng bước chân xa dần, không dám nhúc nhích.
Chu Bắc Nam dùng một bên khuỷu tay chống vào cạnh cửa sổ, dùng cơ thể mình che chở, chắn Lục Ngự Cửu thật kín để đệ tử đi ngang qua không thể nhìn thấy Lục Ngự Cửu gặp riêng cậu ta ở đây.
Hai người đứng dán vào nhau, Lục Ngự Cửu có thể ngửi thấy hương Thụy Não thoang thoảng trên người Chu Bắc Nam, Chu Bắc Nam cũng ngửi thấy mùi bồ kết mà Lục Ngự Cửu thích dùng để gội đầu.
Để tỏ ra đứng đắn, Chu Bắc Nam mạnh dạn nhìn thẳng vào Lục Ngự Cửu đang đứng sát mình, đếm lông mi vừa dài vừa mềm của cậu ấy, rồi lại nhìn đôi môi không vẽ mà đỏ của cậu ấy, quả là cảnh đẹp ý vui.
Lục Ngự Cửu bị cậu ta nhìn mà nóng mặt, nghiêng đầu qua một bên, trong lòng thầm oán giận:
Mình đang đi tìm Từ sư huynh để tặng cỏ Đoạn Tục mình tự trồng cho huynh ấy, trò chuyện bày tỏ tấm lòng, ai ngờ đi được nửa đường thì bị Chu sư huynh này chặn lại, chưa nói được mấy câu, suýt thì bị đệ tử đi ngang qua bắt gặp.
Chờ tiếng bước chân biến mất một lúc lâu, Lục Ngự Cửu mới quay mặt qua khẽ hỏi: “Đi rồi chứ?”
Lục Ngự Cửu đỏ tai rồi mới đỏ mặt, vành tai tròn trịa đỏ chót trông có vẻ bóp sẽ rất đã tay. Chu Bắc Nam cực kỳ muốn bóp lấy vành tai nóng bừng ấy, nghe Lục Ngự Cửu nói chuyện mới tằng hắng một tiếng, nghiêm chỉnh lại: “Đi rồi.”
Lục Ngự Cửu nghiêng người sang: “Chu sư huynh, tay…”
Chu Bắc Nam hơi lúng túng, rút cánh tay chống trên đầu cậu ấy về ngay tức khắc, giả vờ vung vẩy, quay đầu lại thấy không có ai thật, định kéo cậu ấy vào trong điện rồi nói chuyện.
Lục Ngự Cửu không chịu đi theo cậu ta, đứng vững lại, không xê nhích chút xíu nào: “Chu sư huynh có chuyện gì thì cứ nói ở đây là được.”
Chu Bắc Nam nghe giọng điệu xa cách của cậu ấy thì bực bội, thốt ra: “Tên nhóc thối, mất công ta về Ứng Thiên Xuyên mà lúc nào cũng lo cho ngươi, sợ ngươi bị Tuyết Trần phát hiện, ngươi nói chuyện với ta thế à?”
Lục Ngự Cửu hơi ngây người, ngẩng mặt lên nhìn Chu Bắc Nam, đôi mắt hạnh lóe lên rồi nhìn qua chỗ khác, thận trọng nói: “Làm phiền Chu sư huynh lo lắng, Lục Ngự Cửu ổn cả.”
Nét thận trọng của Lục Ngự Cửu mang đậm phong cách của Thanh Lương Cốc nhưng gương mặt trẻ con ấy lại biến thận trọng thành kiểu đáng yêu lạ thường, hệt như thiếu niên học theo cách xử sự của người lớn vậy.
Chu Bắc Nam nhìn thấy hết, cảm thấy rất thú vị, hỏi: “Ngươi không đến Ứng Thiên Xuyên thật hả? Chỗ ta an toàn lắm, có ta che chở cho ngươi, sẽ không có ai nghi ngờ thân phận của ngươi.”
Lục Ngự Cửu thầm nghĩ, ngươi che chở ta thế này vốn đã khiến người ta nghi ngờ rồi.
Nhưng cậu ta biết Chu Bắc Nam có ý tốt, giọng điệu cố ý giả vờ xa lạ cũng mềm hẳn xuống: “Cảm ơn ý tốt của Chu sư huynh.”
Lục Ngự Cửu cảm thấy cần phải báo đáp ý tốt này, do dự mấy lần, cậu ấy lấy túi thuốc đựng cỏ Đoạn Tục bên hông ra: “Tặng Chu sư huynh này.”
Chu Bắc Nam nhướng mày: “Dành tặng riêng ta đấy à?”
Lục Ngự Cửu thành thật: “Không phải, trước đó vốn định tặng cho Từ sư huynh.”
Chu Bắc Nam: “…”
“Chu sư huynh bận lòng như thế, đệ tử không có gì báo đáp.” Lục Ngự Cửu khách sáo nói: “Chút quà mọn không đủ thể hiện hết tấm lòng.”
Chu Bắc Nam xụ mặt xuống.
Món quà mọn gì chứ? Không ngờ bổn công tử lo lắng cho ngươi lâu như thế mà ngay cả món quà cảm ơn riêng cũng không có? Chỉ có thể nhặt phần còn dư của Từ Hành Chi?!
Nhưng nếu nói như thế, chắc chắn sẽ bị coi là hẹp hòi.
Chu Bắc Nam kìm nén sự khó chịu trong lồng ngực, tức tới mức muốn chửi người.
Tên nhóc này đúng là vô lương tâm!
Nhưng dù sao quà cảm ơn cũng vô tội, Chu Bắc Nam kiềm chế cơn giận rồi nhận quà, cởi dây lụa ra xem thì thấy cỏ Đoạn Tục trong đó được bao bọc bởi băng đá, cục nào cục nấy đều mập mạp, nhìn qua là biết được lựa chọn tỉ mỉ, giọng điệu bỗng có thêm phần ghen tuông: “Cỏ Đoạn Tục? Thứ dược thảo tầm thường này mà cũng làm quà được à?” Ý chê bai không lời nào diễn tả rõ được.
Cỏ Đoạn Tục này do Lục Ngự Cửu tự tay chăm bón, nghe Chu Bắc Nam nói thế thì trong lòng khó tránh khỏi bi thương.
“Đệ tử cấp bậc không cao, không có bảo vật gì để tặng. Cỏ Đoạn Tục này do ta tự tay nuôi lớn, ta vốn chuẩn bị cho Chu sư huynh và Từ sư huynh mỗi người một phần, định đi tặng Từ sư huynh rồi mới đi tìm Chu sư huynh…” Lục Ngự Cửu vươn tay ra: “Nếu Chu sư huynh không thích, nói rõ ra cũng tốt, sau này đệ tử sẽ không tặng mấy thứ tầm thường này, không làm bẩn mắt Chu sư huynh nữa.”
Chu Bắc Nam nghe cậu ấy nói vốn đây là quà dành tặng mình thì cái nết cậu ấm bay biến luôn, cầm chặt túi thuốc, đâu muốn trả lại: “Rất tốt, rất tốt.”
Lục Ngự Cửu vẫn chìa tay ra: “Chu sư huynh không thích thì cần gì phải gượng ép.”
“Ta…” Chu Bắc Nam nghẹn lời.
Lục Ngự Cửu không muốn ở đây thêm, duỗi tay ra muốn lấy lại túi thuốc của mình.
Trong lúc cấp bách, Chu Bắc Nam túm tay cậu ấy, bật thốt ra: “Ai nói ta không thích!”
Gương mặt Lục Ngự Cửu vốn tái trắng vì tức giận bỗng đỏ ửng lên.
Cha mẹ mất sớm, Lục Ngự Cửu hiểu chuyện sớm hơn người bình thường, còn từng có kinh nghiệm lang thang ở trần gian nên hiểu được không ít chuyện trần tục.
Khoảng thời gian trước, Chu Bắc Nam nhất quyết muốn cậu ấy tới Ứng Thiên Xuyên làm hầu cận, sau khi về Thanh Lương Cốc, Ôn Tuyết Trần gọi riêng Lục Ngự Cửu tới, bóng gió ẩn ý hỏi tại sao Chu Bắc Nam lại rung động, mất kiểm soát với cậu ấy như thế.
Lục Ngự Cửu hiểu rõ ẩn ý của Ôn Tuyết Trần, lắp bắp hoảng hốt không thôi, Ôn Tuyết Trần lại tưởng cậu ấy sợ nên không hỏi nữa.
Nhưng Lục Ngự Cửu nhớ chuyện ấy mãi, bây giờ bị Chu Bắc Nam cầm tay, cậu ấy lại nghĩ tới lời Ôn Tuyết Trần kích thích mình thì hoang mang lo sợ, đâu dám đòi túi thuốc nữa, hất tay Chu Bắc Nam ra, nhanh chân chạy ra khỏi điện, bỏ chạy hệt như con sóc con bị dọa sợ.
Chu Bắc Nam: “…” Chạy gì thế? Gặp ma à?
Nhưng túi thuốc không bị lấy mất, coi như là chuyện đáng mừng.
Chu Bắc Nam kiểm kê lại đồ trong túi thuốc một lượt, chỉ thấy từng mẩu cỏ Đoạn Tục đều tươi non đáng yêu, đáng để cất kỹ.
Cậu ta cầm đống cỏ ngắm nghía một lúc rồi đi về phòng, lục lọi tìm kiếm một vòng mới tìm thấy miếng ngọc hình bán nguyệt màu đỏ son.
Vừa nãy cậu ta nói năng chua ngoa, có lỗi với tấm lòng của Lục Ngự Cửu, chờ có thời gian rảnh cậu ta sẽ tặng cái này cho cậu ấy coi như quà xin lỗi.
Lục Ngự Cửu chạy liên tục một đoạn xa mới dừng chân dưới gốc cây bách, há miệng thở dốc.
Trong lúc vuốt ngực, Lục Ngự Cửu phát hiện ra điều khác thường, giơ tay áo lên ngửi thử.
Hương Thụy Não dính ở cổ tay áo tỏa ra, khiến trái tim cậu ấy thắt lại, vô thức nhớ lại việc vừa nãy.
Khi nghe thấy tạp âm ở bên ngoài điện, Chu Bắc Nam không kịp kéo cậu ấy vào trong điện bèn cúi người xuống một tay đặt bên mặt cậu ấy, che chắn cho cậu ấy kín mít, nhỏ giọng dặn dò: “Đừng nhúc nhích.”
Đến tận bây giờ âm điệu ấy dường như vẫn còn vang bên tai cậu ấy.
Lục Ngự Cửu thất thần, bỗng nghe được giọng nói hiền hòa vang lên ở nơi mình không xa: “Lục Ngự Cửu?”
Cậu ấy giương mắt lên nhìn, thấy rõ gương mặt người gọi tên mình thì giật nảy, vội vàng vén áo quỳ xuống: “Thanh Tĩnh Quân.”
Thanh Tĩnh Quân đứng dưới cây bách, bên cạnh là La Thập Tam – người bị đồn là được y rất mực cưng chiều. Thanh niên mặc đồ đen, tiên quân áo lụa trắng, một kẻ mặt lạnh như tiền, một người dịu dàng như nước nhưng đều anh tuấn như thần, Lục Ngự Cửu nhìn họ mà tim đập loạn lên.
“Tiểu Lục, chạy vội như thế là muốn đi đâu?”
Thanh Tĩnh Quân hỏi chuyện thân thiết như thế khiến Lục Ngự Cửu vừa mừng vừa lo, cậu ấy cung kính đáp lời: “Thưa Thanh Tĩnh Quân, đệ tử có món quà muốn tặng cho Từ sư huynh.”
“Thế thì mau đi đi.” Thanh Tĩnh Quân cười: “Ta từng nghe Hành Chi khen ngươi, chăm chỉ nghiêm túc, có thiên phú về trận pháp và trái tim trong sáng, tương lai rộng mở.”
Lục Ngự Cửu được khen đỏ cả mặt: “Từ sư huynh… Quá khen.”
Thanh Tĩnh Quân nói: “Không hề quá khen.”
Được quân trưởng đức cao vọng trọng khen ngợi, nói không vui là giả, Lục Ngự Cửu cố nén vui mừng, cúi vái thật sâu rồi mới đứng dậy đi khỏi đó.
Tạp La nhìn bóng lưng hân hoan của nhóc lùn kia, cười nhạo: “Sư phụ chẳng hề tiếc rẻ lời bùi tai.”
Nhạc Vô Trần nói: “Hắn xứng đáng.”
Tạp La nói tiếp: “Tiểu Lục Tiểu Lục, gọi thân thiết quá trời.”
Nhạc Vô Trần liếc hắn ta một cái, bật cười: “Thập Tam, đừng quậy.”
Tiếng “Thập Tam” ấy khiến Tạp La không nói gì nữa, thầm nói, tên Nhạc Vô Trần này biết dỗ dành người khác thật đấy, chỉ gọi tên thôi cũng có thể làm trái tim người ta mềm nhũn.
Trong lúc hắn ta suy nghĩ viển vông, một bóng người xinh đẹp ngự kiếm bay đến từ đằng xa, không chờ thân kiếm dừng hẳn, nàng đã nhảy xuống, quỳ trước mặt Thanh Tĩnh Quân.
Nguyên Như Trú thở dốc, mặt trắng bệch: “Thanh Tĩnh Quân, cửu vĩ xà đang ở núi Bình Định! Nhưng không biết nó tìm được một con cửu vĩ xà khác ở đâu, hai con giao phối công lực tăng mạnh! Khúc sư huynh đang đánh với chúng, xin Thanh Tĩnh Quân ra mặt, gột rửa đất trời, quét sạch yêu tà!”
Nhạc Vô Trần nghe vậy, vẻ mặt và tinh thần đều bình tĩnh: “Ta biết rồi. Ngươi mau chóng triệu tập Hành Chi và mọi người, kiểm kê đệ tử, theo ta đi ứng chiến.”
Nguyên Như Trú nhận mệnh lệnh, quay người đi mất.
Nhạc Vô Trần quay đầu sang dặn dò Tạp La: “Ngươi ở lại trông chừng quan.”
Tạp La định đi cùng y nhưng nghĩ đến thân thể mới chỉ đến cấp Luyện khí của mình thì ngậm miệng lại.
Để có thể đi theo Nhạc Vô Trần đã là kết quả do hắn ta hạ mình tìm mọi cách năn nỉ mới có được. Không biết xấu hổ thì được chứ không muốn sống thì không được đâu.
Nhạc Vô Trần rất thản nhiên.
Lần này do y đích thân trấn giữ, Hành Chi không bị phạt đánh, không bị sốt, bình an độ kiếp chắc chắn không thành vấn đề.
Nhưng mà, Nhạc Vô Trần nhầm rồi.
Nếu kiếp nạn trong vận mệnh đều dễ dàng vượt qua được như thế thì sao có câu số mệnh khó thay đổi?
Ở kiếp trước, kiếp nạn này bắt nguồn từ việc Từ Bình Sinh lơ là nhất thời, mà lần này nó lại rơi vào Ôn Tuyết Trần.
Có Thanh Tĩnh Quân ra mặt, tình hình đánh chiến với hai con cửu vĩ xà ngày càng căng thẳng, chúng nó cố gắng chạy thoát nhưng trận pháp của Thanh Tĩnh Quân đâu dễ phá như thế? Con cửu vĩ xà có tu vi nhỉnh hơn bị đánh cho đỏ mắt, Ôn Tuyết Trần liếc mắt cái đã nhắm trúng vào mắt trận trấn giữ, niệm kinh chú, nó gào thét điên cuồng liên tục bắn đạn lửa về phía hắn, đánh cho trận pháp phòng thân của hắn bị nứt mấy vết!
Thấy nếu bị tấn công tiếp thì Ôn Tuyết Trần sẽ bị nguy hiểm đến tính mạng, Từ Hành Chi cách hắn gần nhất đuổi tới, chắn trước người Ôn Tuyết Trần, đỡ trận mưa đạn cho hắn!
Nhạc Vô Trần nhìn thấy cảnh ấy từ xa, vừa mới cảm thấy tình hình không ổn, một viên đạn sắt nhỏ bốc cháy hóa thành con cá lọt lưới, đánh xuyên qua ngực phải Từ Hành Chi!
Ôn Tuyết Trần siết chặt tay lại, vòng âm dương được thưởng thức xoa vuốt nhiều năm bị hắn bóp cho vỡ tan: “Hành Chi!”
Vết thương nhỏ nhưng vẫn gây tổn thương tới phủ tạng, Từ Hành Chi lại mặc đồ trắng, trước ngực và sau lưng nhanh chóng lan đỏ, cũng nhuộm đỏ đôi mắt Nhạc Vô Trần.
Nhạc Vô Trần kìm nén cơn đau ở trái tim, dồn toàn bộ sức lực trong cơ thể, vung kiếm lên không trung, đâm vào con cửu vĩ xà yếu hơn, sức mạnh của Nguyên anh xuyên qua cơ thể nó, làm nổ ra một lỗ máu to bằng miệng bát trên cơ thể cứng như đá của nó!
Y bỏ mặc Duyên Quân, đáp gió đi mất, xông thẳng về phía Từ Hành Chi!
Nhưng y vẫn chậm một bước.
Từ Hành Chi hơi khựng lại vì bị thương, con cửu vĩ xà tu vi cao hơn tìm được cơ hội, vặn vẹo cơ thể khổng lồ, cái đầu to như quan tài hất một phát, ngậm lấy Từ Hành Chi, nuốt cả người cậu vào miệng!
Trong giây phút cái miệng lớn của yêu quái chưa khép lại, một bóng người như sao chổi chui vào qua kẽ răng nó.
Mấy giây sau, mây đen cuồn cuộn kéo đến đầy trời. Tiếng sấm sét vang lên rầm trời, làm cho Chu Bắc Nam tái mặt.
Cậu ta may mắn từng thấy mây này một lần, đó là khi cậu ta còn nhỏ, Thanh Tĩnh Quân độ kiếp, chân mây của mây độ kiếp kéo từ Phong Lăng Sơn tới tận Ứng Thiên Xuyên, bây giờ ở trong phạm vi của nó mới biết nó khủng khiếp cỡ nào!
Mà trong số bọn họ, người tới Kim đan đại viên mãn, ngoài Từ Hành Chi ra thì còn ai vào đây nữa?
Tên nhóc ấy độ kiếp vào lúc này, chẳng lẽ không muốn sống nữa à!
Vừa nãy Chu Bắc Nam tập trung hết tinh thần đánh với hai con rắn nên không thấy cảnh Từ Hành Chi bị thương nặng, cậu ta rút lui, đưa mắt nhìn xung quanh nhưng không thấy bóng dáng người kia đâu, đang định gọi tên Từ Hành Chi thì cảm thấy một luồng linh áp Nguyên anh giáng xuống.
Nhạc Vô Trần vung tay áo, đập ra một đợt sóng khí, trầm giọng ra lệnh: “Đệ tử bốn môn phái nghe lệnh, tất cả lùi về giữa núi Nguyên Nhân! Nhạc Vô Trần ở đây, không nên hoảng sợ!”
Ba chữ “Nhạc Vô Trần” bỗng chốc kéo Chu Bắc Nam ra khỏi vũng bùn hoảng loạn.
Đúng vậy, có Nhạc Vô Trần ở đây, cho dù Từ Hành Chi quậy thủng trời vẫn sẽ có người luyện đá vá trời cho cậu.
Sau khi đệ tử các môn phái rút lui dưới sự chỉ đạo của Khúc Trì, Nhạc Vô Trần cố bình tĩnh lại, không quan tâm tới quần áo bị gió dữ thổi tung, đứng một chân giữa không trung, ngửa đầu nhìn trời.
Cửu vĩ xà bị thương bởi Duyên Quân đang nổi điên bên dưới, phun một đống đạn sắt về phía Nhạc Vô Trần, y lách người tránh né, dùng tay không kẹp một viên, viên đạn nằm giữa ngón tay trỏ và ngón tay giữa của y, lửa rắn cháy hừng hực khiến ngón tay y bỏng một mảng to.
Ánh mắt Nhạc Vô Trần trở nên lạnh lùng, vung tay một phát, bắn vào mắt trái bạn đời của nó.
Cửu vĩ xà nuốt Từ Hành Chi đau đớn gào lên, đôi mắt xanh biếc to như cái đèn lồng bỗng lụi tàn, dòng máu đặc sệt chảy ào ào xuống.
Nếu Tạp La ở đây thì hắn ta sẽ nhận ra trạng thái của Nhạc Vô Trần lúc này giống y hệt lúc đánh với hắn ta ở núi Hoài Ninh mười mấy năm trước, vừa bĩnh tĩnh vừa điên cuồng, giận dữ tột độ, trái tim và máu đều lạnh căm.
Nhạc Vô Trần nghĩ, chung quy Hành Chi vẫn đi một nước cờ hiểm.
May mà Mạnh Trọng Quang theo Hành Chi bị thương nặng vào trong bụng rắn, may mà mình đang ở đây.
Thiên lôi do Từ Hành Chi kéo tới, chỉ trong chốc lát, tia sét trắng như tuyết đầu tiên bổ thẳng xuống bụng con rắn khổng lồ.
Cửu vĩ xà gào thét điên cuồng vì bị mù bỗng im bặt, bị đánh thành một sợi dây thừng cứng ngắc, bụng rắn bị tia chớp như con dao cạo rạch ra một vết cực to, hai người ôm nhau rơi ra khỏi vết rách, lăn lộn rơi xuống giữa núi.
Con cửu vĩ xà còn lại mất chỗ dựa, chưa kịp chạy trốn, cái đầu rắn to đùng đã bị Duyên Quân cắt phăng.
Tia sét thứ hai theo sát tới nhưng đột nhiên có một bóng người trắng tinh xuất hiện giữa không trung, lúc tia sét mang theo tư thế mãnh liệt đập vào lưng y rồi bắn tóe ra các tia điện nhỏ, người ấy còn chẳng rên chẳng hừ lấy một tiếng.
Thiên lôi bị chặn nên không vừa lòng, tia thứ ba bắn xuống như con thoi, Nhạc Vô Trần cố gắng giành trước nhưng không thể ngăn lại, trong lúc sốt ruột, một luồng yêu khí tỏa ra từ giữa núi.
Sét giáng xuống, đùng đoàng, rầm rầm, yêu khí thoáng tản ra rồi tụ lại ngay.
Nhạc Vô Trần kiềm chế cơn đau bỏng rát khắp cả người, âm thầm vỗ về: Đứa trẻ ngoan.
Lúc này Từ Hành Chi vẫn chưa ngất xỉu. Cậu chìm trong đau đớn tận mắt chứng kiến Mạnh Trọng Quang biến thành dáng vẻ của yêu, cũng tận mắt nhìn thấy thiên lôi đánh vào người Mạnh Trọng Quang, tâm hỏa giày vò làm cho cậu phun ra một búng máu, cơ thể đau nhức không có sức lực, chỉ đành ôm vết thương cố gắng giãy giụa: “Trọng Quang… Đây là thiên kiếp của ta, ngươi mau tránh ra!”
Mạnh Trọng Quang không tránh né, vén lọn tóc rối của cậu ra sau tai, dùng đầu ngón tay hơi bốc khói miết vành tai cậu, thân mật nói: “Sư huynh, chúng ta cần gì phải phân biệt ta ngươi chứ?”
Từ Hành Chi thấy câu ấy hơi kỳ lạ nhưng chưa kịp nghĩ kỹ, đôi môi cậu đã tê dại như bị điện giật.
Thanh niên nâng mặt cậu lên, quấn lấy môi cậu, truyền dòng điện còn sót lại qua, gặm mút nó.
Từ Hành Chi trợn tròn mắt, thậm chí không nhận ra Mạnh Trọng Quang đang dùng tay phong ấn các huyệt lớn trên người mình.
Tới khi cậu phát hiện ra, cơ thể đã mềm oặt, đau đớn bay biến, nơi duy nhất còn cảm giác là đôi môi ngứa ngáy.
Mạnh Trọng Quang bỉ non bên tai Từ Hành Chi: “Sư huynh, ngủ đi. Dậy sẽ hết đau.”
Sau câu nói đó, hai mắt cậu tối sầm lại, một giấc ngủ tối tăm ngọt ngào ập tới.
Thiên đạo trốn một góc bị hai người đột nhiên xông ra giữa chừng quấy nhiễu làm cho cáu giận, nhất là Nhạc Vô Trần cách nó gần nhất. Ánh sét cố gắng hết sức tránh khỏi y mà Nhạc Vô Trần đang ở khu vực bên ngoài, vòng phòng ngự quá rộng, cách bầu trời cực gần, lúc hứng sét gây ra tổn thương cực lớn với cơ thể, mà y dồn hết toàn bộ sức lực cũng chỉ đỡ được hai mươi tia.
Mạnh Trọng Quang chỉ đỡ hai mươi tám tia còn lại.
Tới khi tia sét thứ bốn mươi hai giáng xuống, cuối cùng Nhạc Vô Trần kiệt sức, rơi xuống khỏi đám mây, khom người thở dốc không ngừng, bộ quần áo trắng rách tả tơi, lộ từng vết thương đỏ thẫm.
Trong cơn mưa rào, y lờ mờ nhìn thấy một bóng người màu đen chạy tới, còn tưởng rằng là ảo giác, mãi đến tận khi ai đó siết chặt lấy vai mình, tiếng la hét lo lắng ngắt quãng bên đôi tai bị ù, Nhạc Vô Trần mới lấy lại tinh thần, gắng gượng nhìn rõ người trước mắt: “Thập Tam? Ngươi tới đây làm gì?”
Chân trời lại có dấu hiệu sét chuẩn bị bổ xuống, y ngửa đầu nhìn, quỳ lết lên mấy bước muốn chặn nó lại: “Mau quay về… Mới Luyện khí mà tới đây, ngươi không muốn sống nữa à? Chẳng may rước phải tai họa…”
“Ai không muốn sống?! Con mẹ nó ai không muốn sống!” Tạp La kéo y lại, thấy trên người y đầy vết thương đỏ, tức tới mức mặt môi tái mét, thô bạo nói: “Nhạc Vô Trần, ta thật sự muốn đánh chết ngươi!”
Nhạc Vô Trần trải qua trận đánh ác liệt và chịu hai mươi tia thiên lôi độ kiếp không chịu nổi lôi kéo như vậy, mất sức ngã vào lồng ngực Tạp La, thần trí mơ hồ nhưng vẫn thì thào: “Quay về…”
Tạp La bất động như núi, ngồi quỳ ôm đầu y, trong lúc thiên lôi bổ xuống giữa núi, đất rung núi chuyển, mặt hắn ta lạnh tanh, mắt sáng như đuốc.
Tên điên này!
Mình phải tu luyện thật chăm chỉ, vượt qua Từ Hành Chi, vượt qua Nhạc Vô Trần, canh chừng, che chở tên điên này thật kỹ càng, để y một đời một kiếp không bao giờ làm chuyện ngu ngốc vì người khác nữa!
Thiên lôi vang vọng, ráng đỏ màu cam sẫm bùng cháy phía chân trời, mặt đất sáng rực, từ trên xuống dưới như được gột rửa, một tu sĩ Nguyên anh mới đột nhiên xuất hiện trên thế gian.
Điều thú vị là thiên lôi độ kiếp có tổng cộng bốn mươi chín tia mà chẳng một tia nào rơi lên người tu sĩ đó. Dù sao ai cũng nói không thể trốn khỏi thiên lôi độ kiếp, người này lại có được công lực Nguyên anh mà chẳng mất gì, phi thăng một cách êm đẹp.
Người đời bàn tán, ai cũng nói người đó may mắn nhất trên đời.
Từ Hành Chi cõng Mạnh Trọng Quang mê man vì đỡ lôi kiếp đi ra khỏi núi Bình Định, dõi mắt nhìn xung quanh, tinh thần sảng khoái, hai mắt nhìn vào không trung cứ như có thể nhìn thấy diện mạo vốn có của vạn vật trên thế gian.
Nhưng cậu nhanh chóng tìm thấy người duy nhất đáng để cậu nhìn chăm chú.
Nhạc Vô Trần mặc áo bào đen của Tạp La, đứng dưới ráng đỏ, nhẹ nhàng vẫy tay với cậu: “Qua đây.”
Từ Hành Chi vững vàng bước đến, sợ làm động tác mạnh khiến người sau lưng bị đau.
Dù đã ngủ say, Mạnh Trọng Quang vẫn túm chặt lấy áo sau lưng cậu, cứ như trong đó có sức mạnh khiến hắn yên tâm.
Từ Hành Chi bước nhanh tới trước mặt Nhạc Vô Trần, cúi người quỳ xuống: “Sư phụ, Hành Chi về rồi.”
Nhạc Vô Trần vươn một tay ra.
Vết thương đỏ trên người y đã được giấu kín trong áo choàng đen, tay phải gắng gượng đỡ đạn sắt rồi bị thương thì đặt ra sau lưng, tay trái khẽ xoa đầu cậu như Cô Dạ tiên nhân chạm vào đỉnh đầu kẻ phàm nhân để ban tặng trường sinh.
“Không sao là được.” Nhạc Vô Trần dịu giọng nói: “Làm sư phụ lo lắng lâu như thế, sau này tuyệt đối không được như vậy nữa.”
Từ Hành Chi có được tu vi Nguyên anh, với Phong Lăng, với tiên đạo đều là việc vui bậc nhất, đáng để chúc mừng, đương nhiên phải mở bữa tiệc to để ăn mừng, nhưng Nhạc Vô Trần đỡ thiên lôi độ kiếp bị mất linh lực, kinh mạch bị áp chế, thương tích không nhẹ, về đến Phong Lăng Sơn thì ngã gục.
Nhạc Khê Vân sốt ruột tới mức môi nổi mấy nốt rộp, hầu hạ bên cạnh y suốt ngày đêm, chăm sóc tỉ mỉ, Từ Hành Chi hổ thẹn nên bầu bạn mọi lúc, có người đề cập tới lễ mừng Nguyên anh nhưng không có ai lo liệu nên cứ thế mà bỏ qua luôn.
Hai năm sau, thế gian yên bình, hoa thông hãm trà, thanh mai ủ rượu, nhưng lại có rất nhiều chuyện lặng lẽ thay đổi.
Trong danh sách nộp lên để làm lễ tế Đông Hoàng đợt mới, quan giữ trật tự của Phong Lăng đã đổi từ Từ Hành Chi từng ở trên danh sách mười mấy lần thành La Thập Tam.
Ôn Tuyết Trần cầm danh sách đi tìm Từ Hành Chi, nhận được câu trả lời không biết xấu hổ: “Ta tay chân lẩm cẩm, nên cho người trẻ tuổi cơ hội chứ đúng không?”
Ôn Tuyết Trần già hơn cậu hai tuổi: “…”
Sau khi quay về Thanh Lương Cốc, hắn vẫn mang vẻ mặt cực kỳ lo lắng.
Chu Huyền đã gả cho hắn bưng trà tới nói: “Trần ca à, trách nhiệm của quan giữ trật tự trong lễ tế Đông Hoang là giữ gìn trật tự, với điều kiện tiên quyết là không can thiệp vào việc thi đấu của các đệ tử, đảm bảo cuộc thi diễn ra an toàn. Bây giờ Từ sư huynh đã lên Nguyên anh rồi, không hợp đảm nhiệm chức vụ quan giữ trật tự nữa. Nếu không thì có dị thú tu vi yếu hơn huynh ấy xuất hiện, vừa ló đầu ra đã bị linh áp của Từ sư huynh áp chế, khó tránh khỏi ảnh hưởng tới công bằng của cuộc thi.”
Đương nhiên Ôn Tuyết Trần nghe lọt lời Chu Huyền nói, nhưng hắn vẫn có điều chưa hiểu: “Vì sao không phải là Từ Bình Sinh?”
Chu Huyền đáp: “Muội nghe nói hai năm qua, dường như Phong Lăng La Thập Tam đã lĩnh ngộ được gì đó, tu vi tiến bộ rất nhanh, chỉ trong hai năm ngắn ngủi đã lên Kim đan cấp năm. Những người nói linh căn của hắn khuyết thiếu, ngồi không mà hưởng vị trí trống đều không nói gì được nữa. Mặc dù Bình Sinh huynh cùng cấp với hắn nhưng nói thật thì bàn về kiếm lộ, kiếp pháp, huynh ấy không bằng La Thập Tam.”
Ôn Tuyết Trần không nói gì.
Chu Huyền nói không sai, vào cuộc thi Thiên bảng lần trước, La Thập Tam dựa vào kiếm pháp tuyệt diệu đạt được hạng tư, nếu không phải vì pháp lực yếu hơn một bậc thì hắn ta sẽ không thua Cửu Chi Đăng đang ở Kim đan cấp tám.
Mọi người đều nói người này tích lũy thật nhiều thật vững rồi bùng nổ, chỉ có Ôn Tuyết Trần cảm thấy La Thập Tam có vô số điều kỳ quái, mặt mày mang tà khí rất nặng, không giống người bình thường. Hắn từng để ý thử nhưng không phát hiện ra dấu vết ma, yêu, quỷ đạo trên người hắn ta, chỉ cho rằng mình đoán sai.
“Bàn về tu vi, Cửu Chi Đăng rất được nhưng hắn là người ma đạo, đương nhiên không thể tham gia chuyện quan trọng của bốn môn phái.” Ôn Tuyết Trần cau mày: “Bàn về bối phận, La Thập Tam lại cao hơn Từ Bình Sinh. Xem ra cũng chỉ có hắn phù hợp thôi.”
Chu Huyền nhếch miệng cười: “Năm đệ tử của Phong Lăng, không phải vẫn còn một người sao?”
Nhắc đến người này, Ôn Tuyết Trần càng nhíu chặt mày hơn.
Khoảng thời gian trước, Từ Hành Chi khóc lóc vai nài cầu xin hắn, nhờ hắn nói đỡ trước mặt Phù Diêu Quân, cuối cùng giành được vị trí đứng đầu cuộc thi Thiên bảng.
Nếu biết cậu giành được hạng nhất lại làm ra chuyện ngu xuẩn như xin Thanh Tĩnh Quân ban nhân duyên ở ngay trước mặt mọi người, dù đánh gãy chân Ôn Tuyết Trần, hắn cũng sẽ không giúp cậu.
Hơn nữa, cậu xin cô gái hiền lành nhà nào không xin mà lại đi xin một người đàn ông chứ?
May mà không phải một mình Ôn Tuyết Trần khiếp sợ, khi Từ Hành Chi quỳ xuống, nói ra mong muốn trong lòng, toàn bộ bốn môn phái đều ồ lên, Khúc Trì hiếm khi sảy tay làm rơi phất trần, Chu Bắc Nam hoảng sợ đến mức ngay cả một câu trọn vẹn cũng không nói ra nổi.
Nhưng để mà nói về khiếp sợ thì không ai hơn được Từ Bình Sinh.
Người trước giờ vốn luôn coi trọng hình tượng, cực kỳ sĩ diện ấy ngớ người luôn, cứ đứng đờ ra đó, mặt đỏ bừng, không nói nên lời.
Sau nhiều năm, cuối cùng Từ Bình Sinh cũng nhận ra người làm huynh trưởng như cậu ta đã không làm tròn bổn phận nhường nào.
Cậu ta nuôi đệ đệ thành một kẻ đoạn tụ!
Nếu sau này bỏ mình, cậu ta xuống dưới gặp mẫu thân, phải giải thích thế nào đây?
Nhạc Khê Vân lấy lại tinh thần, chưa kịp mắng “hoang đường”, Thanh Tĩnh Quân đã vỗ tay mấy cái, ra hiệu đệ tử bốn môn phái im lặng.
Nhạc Khê Vân tràn ngập mong chờ nhìn sư huynh, giao trọng trách ngăn chặn việc mất mặt này cho y.
Chờ mọi người yên tĩnh lại, Nhạc Vô Trần mỉm cười đứng dậy, dịu dàng nói: “Hành Chi, cuối cùng ta cũng có thể tặng sính lễ ta tích góp cho con rồi.”
Từ Hành Chi khó nén nổi vui mừng: “Đệ tử cảm ơn sư phụ!”
Nhạc Khê Vân: “…” Bất cẩn rồi.
Sao hắn lại quên sư huynh thương yêu cưng chiều Từ Hành Chi không có giới hạn luôn rồi!
Nếu câu “hoang đường” ấy bật ra thì đúng là làm mất mặt sư huynh ngay trước mặt toàn bộ bốn môn phái, Nhạc Khê Vân đành kìm nén cơn bực tức xuống, quyết định chờ mọi người tản đi rồi khuyên sư huynh cân nhắc lại sau.
Mạnh Trọng Quang đứng giữa đám người, cũng sững sờ tại chỗ giống mọi người.
Trong mắt hắn chỉ còn thanh niên vừa đấu trận cuối cùng, tóc mai hơi rối, con ngươi lấp lánh.
Nhận được sự đồng ý của sư phụ, Từ Hành Chi vô cùng hân hoan, thậm chí không kịp đứng lên, quỳ một chân vươn tay phải về phía Mạnh Trọng Quang đứng dưới đài, vẫy gọi hắn.
Đến đây. Qua chỗ ta.
Mạnh Trọng Quang tỉnh lại từ ảo mộng, đẩy người như pho tượng trước mặt mình ra, lảo đảo chạy về phía người kia.
Trong mắt hắn, mọi người như tan biến hết, trên đời chỉ còn một mình Từ Hành Chi.
Thiên yêu bản tính âm tà, không hiểu chuyện thế gian, không hiểu đạo lý trên đời, nhưng có linh tính trời ban, hưởng trí thông minh, bước sai một bước thôi cũng sẽ hại tới thương sinh.
May mà Từ Hành Chi đã đến.
Từ Hành Chi dẫn hắn ra khỏi hỗn độn tối tăm, dốc lòng dạy dỗ, đối xử chân thành.
Vì cậu, Mạnh Trọng Quang tự cắt bỏ nanh vuốt và đôi cánh, dần dần biến mình thành kiểu cậu thích, chỉ vì có thể xứng đôi với cậu.
Từ nụ hôn giữa thiên lôi, hắn đã nói rõ thân phận và tấm lòng của mình với Từ Hành Chi.
Lúc đó, trong mắt Từ Hành Chi có ngạc nhiên, có bất an, có thương xót nhưng không hề có căm ghét. Mạnh Trọng Quang biết ngay sớm muộn gì cũng có ngày này.
Nhưng hắn không ngờ Từ Hành Chi lại là người chủ động nói ra lời này, giữa ban ngày ban mặt, ngay trước mặt đông đảo mọi người, cậu vươn tay về phía hắn, ba nghìn thế giới đều biến thành nụ cười đầy tình ý.
Trong mắt Mạnh Trọng Quang chỉ có Từ Hành Chi, đương nhiên không biết người bị hắn đẩy ra là ai.
Cửu Chi Đăng bị hắn đẩy loạng choạng, gắng gượng giữ cho cơ thể đứng vững với tư thế nghiêng về phía trước.
Cú ngã này giống như toàn bộ thế giới đã rơi ra khỏi lồng ngực cậu ta.
Cậu ta biết chắc chắn sư huynh sẽ không chọn một kẻ không thuộc chính đạo để làm bạn đời nhưng lòng si mê khó sửa, vẫn mong chờ một ngày nào đó sẽ có kỳ tích xảy ra…
Trong lòng Cửu Chi Đăng kêu vang rối bời, mãi đến tận khi có một bàn tay đột ngột vươn tới, dùng sức lực thô lỗ cứu người chết đuối để kéo cậu ta lên, sau đó lại duỗi tay chạm vào gáy cậu ta, lúc đó cậu ta mới tỉnh táo lại.
Cậu ta quay đầu lại, là La Thập Tam.
La Thập Tam không nhìn Cửu Chi Đăng mà nhìn thẳng về phía trước, vỗ lưng cậu ta, nhỏ giọng nói: “Có chút tiền đồ đi.”
Cửu Chi Đăng quay đầu lại nhìn hai người đang cầm tay nhìn nhau trên đài với trái tim đập loạn nhịp, trái tim vốn đã tê tái, bị vỗ một cái bỗng cảm thấy đau.
Đương nhiên, trận ồn ào này của Từ Hành Chi vẫn gặp báo ứng.
Lần trước nữa Ôn Tuyết Trần đến thăm Phong Lăng Sơn, đúng lúc thấy Từ Hành Chi ưu lo phe phẩy quạt uống rượu giải sầu, hắn hỏi cậu làm sao, cậu ngậm miệng bình rượu chán nản nói nói: “Huynh trưởng không đồng ý hôn sự của ta và Mạnh Trọng Quang.”
Vì thế, Ôn Tuyết Trần rất hoài nghi lần này Từ Hành Chi không chịu đảm nhiệm chức quan giữ trật tự, mang mưu tính riêng, muốn nhân cơ hội này ở bên cạnh Từ Bình Sinh để giả bộ ngoan ngoãn lấy lòng, làm Từ Bình Sinh mềm lòng, đồng ý yêu cầu hoang đường của cậu.
Ôn Tuyết Trần nghĩ tới một loạt chuyện phiền phức, nhíu mày lại.
Chu Huyền khẽ cười, nhìn xung quanh thấy ngoài cửa sổ không có ai thì chậm rãi ngồi lên đùi hắn, dùng ngón tay cái vuốt vết nhăn giữa hai hàng lông mày của hắn: “Cau mày sẽ không đẹp đâu.”
Ôn Tuyết Trần nghe câu đó thì giãn mày ra, gương mặt lạnh lùng bỗng ửng đỏ, trưng vẻ mặt của bậc trượng phu ra, trách thê tử làm hành động thân mật không ra thể thống gì giữa ban ngày ban mặt: “Làm càn.”
Nhưng hai chữ ấy vừa nhẹ nhàng vừa ấm áp, chẳng khiến Chu Huyền sợ.
Chu Huyền mỉm cười.
Ôn Tuyết Trần phát hiện hôm nay nàng ấy cười nhiều hơn mọi ngày, bèn hỏi: “Sao thế? Có việc gì vui hả?”
Chu Huyền hỏi hắn: “Trần ca, có phải muội nặng hơn rồi không?”
Ôn Tuyết Trần cảm nhận cẩn thận, nặng hơn một chút.
Nhưng hắn vẫn nói: “Không nặng.”
Chu Huyền cười rạng rỡ, mặt mày như hoa mùa xuân, ghé vào bên tai Ôn Tuyết Trần, nhẹ nhàng nói một câu.
Trên buổi lễ tế Đông Hoàng, Tạp La đội mũ cánh chuồn màu đen chuyên dụng của quan giữ trật tự vừa mới nhìn thấy Ôn Tuyết Trần, suýt thì không nhận ra người luôn mỉm cười ấy là ai.
Tới khi nhìn thấy hắn ta, cái người từ trước đến nay luôn lạnh lùng vô cảm lại khách sáo gật đầu với hắn ta: “La sư đệ.”
Tạp La càng hãi hùng hơn, âm thầm suy đoán Ôn Tuyết Trần khác thường như thế, chẳng lẽ hắn đã đoán ra thân phận của mình, vừa nãy giả vờ thân thiết để thăm dò thêm sao?
Nhưng hắn ta nghĩ lại, mặc kệ hắn vậy, Ôn Tuyết Trần chỉ là một tên đệ tử cỏn con của Thanh Lương Cốc, dù đa mưu túc trí, đa nghi hay nghĩ nhiều, sao mà biết bí mật của mình được?
Tạp La đã trở thành La Thập Tam rồi, mười mấy năm qua đã sửa lại phong cách, thay đổi gương mặt, dù huynh trưởng ruột của mình đứng trước mặt cũng không nhận ra mình là vị tiên gia nào, điều duy nhất giống Tạp La ngày xưa chỉ có làn da hơi đen.
Mà khoảng thời gian trước, huynh trưởng của hắn ta độ kiếp thất bại nên chết trong thiên lôi rồi.
Lúc biết được tin tức này, Tạp La hơi ngây người, dù sao hắn ta cũng đã lên kế hoạch, nếu hắn ta giết Nhạc Vô Trần, quay về ma đạo, đến lúc đó nếu huynh trưởng vẫn còn, hắn ta nói ra vài ba chuyện cũ là có thể về ma đạo được.
Nhưng từ nhỏ hắn ta mắt cao hơn đầu, tình cảm với huynh trưởng không sâu đậm lắm, bây giờ mất hết hứng thú với việc quay về ma đạo, than thở một tiếng rồi thôi.
Nhất là khi nghe tin hai đứa cháu trai của mình tranh giành vị trí ma tôn mà biến thành hai con gà chọi thì Tạp La càng thấy buồn cười.
Nếu hắn ta vẫn còn thì vị trí ma tôn ấy lại để hai thằng nhãi nhúng tay vào được chắc?
Nhưng nếu hắn ta vẫn còn thì có lẽ sẽ thành kẻ thù không đội trời chung với Nhạc Vô Trần.
So ra thì cứ như bây giờ cũng không tệ.
Mấy canh giờ sau, trên núi Đại Diêm.
Mấy đệ tử ngoại môn của Ứng Thiên Xuyên bị Ba Xà nổi giận vì bị đánh thức đuổi cho chạy trối chết, hai người trong số đó luôn ngẩng đầu nhìn trời như đang đợi ai đó đến.
Khi chạy được hơn trăm bước, một bóng người đen sì sì đáp xuống từ trên chín tầng mây, hai đệ tử đó cùng nhau hiện ra vẻ được cứu, thất thanh hô to: “La sư huynh, cứu bọn ta với!”
Tạp La cười khẩy: Đám vô dụng.
Hắn ta không dùng kiếm, lôi cây cung dài ở sau lưng ra trước, kéo dây cung, tia sáng vàng rực cắm thẳng vào vảy ở đuôi Ba Xà, ghim chặt nó ở một chỗ, trì hoãn thế tấn công của nó mà không làm tổn thương da thịt nó.
Điều này nằm trong chức trách của quan giữ trật tự: Chỉ ra tay cứu lúc khẩn cấp, còn đâu không được làm gì khác. Dù Tạp La ngứa nghề, rất muốn liều một phen với dị thú trong lời đồn này nhưng bắn trúng xong, hắn ta thở dài rồi thu cung lại, quay người đi, thoắt cái đã đi vào trong rừng.
Thấy tiếng đuổi đánh phía sau biến mất, Tạp La đứng trên đầu cành cây mới xách cung trên tay, đang định quay lại đỉnh núi, cánh mũi nhúc nhích như có cảm giác gì đó, nhếch miệng mỉm cười: “Ra đi.”
Nếu đã bị vạch trần rồi thì Nhạc Vô Trần không trốn nữa, bước ra từ phía sau thân cây, ôn hòa hỏi: “Sao biết ta đến?”
“Trước khi đến đây sư phụ đã uống Hàn Đàm Hương đúng không?”
Nhạc Vô Trần nhấc tay áo lên ngửi thử, quả thật trên người có mùi Hàn Đàm Hương thoang thoảng, y bèn cười nói: “Mũi Thập Tam nhạy ghê.”
Tạp La ngồi trên cành cây, thích thú đánh giá vị khách không mời mà đến vốn không nên xuất hiện ở đây: “Sư phụ không trấn giữ ở tế đàn Đông Hoàng mà đến đây làm gì?”
Nhạc Vô Trần đáp: “Đây là lần đầu tiên ngươi tham gia lễ tế Đông Hoàng, ta sợ ngươi không biết làm thế nào.” Thật ra là sợ hắn ta không cứu các đệ tử, bây giờ xem ra yên tâm được rồi.
Tạp La ngắm nghía soi mói biểu cảm trên mặt Nhạc Vô Trần, cho rằng y đang âm thầm quan tâm mình, cười càng tươi hơn.
“Sư phụ quan tâm đệ tử như thế, xin hỏi…” Tạp La đeo cung ra sau lưng, hàng lông mày rậm nhướng lên, nở nụ cười rạng rỡ: “Có phải sư phụ xem trọng đệ tử rồi không?”
Tạp La thường xuyên có hành vi và lời nói vô lễ như thế, Nhạc Vô Trần quen rồi, dịu giọng nói: “Nói linh tinh.”
Tạp La không hài lòng về câu trả lời đó: “Linh tinh gì chứ, đừng coi ta là trẻ con.”
Nhạc Vô Trần cụp mắt khẽ cười, vung tay làm ống tay áo bay phấp phới, chừa lại cho Tạp La một bóng lưng: “Về đi.”
Vừa đánh một trận, tinh lực cuồn cuộn trong lồng ngực Tạp La vẫn chưa dịu xuống, thái độ như gần như xa của người này càng đổ thêm dầu vào lửa, khiến hắn ta không nhịn được bật thốt lên: “Nhạc Vô Trần!”
Nhạc Vô Trần dừng chân, không trách hắn ta vô lễ, cũng không quay đầu lại.
Đối mặt với con thú khổng lồ Ba Xà thì thừa sức chống trả, nhất thời hắn ta lại không biết phải đối mặt với bóng lưng yên tĩnh dịu dàng kia thế nào, giống như người có vô số báu vật lại do dự đắn đo, không biết nên dâng tặng món nào mới khiến người này vui.
Nghĩ tới đây, hắn ta mềm giọng xuống một cách vi diệu, nói nhỏ: “Sư phụ.”
Sư phụ, người có thể đồng ý hôn sự Từ Hành Chi và Mạnh Trọng Quang, thế có thể đồng ý hôn sự của ta không?
Nhưng Tạp La không nói ra khỏi miệng. Hắn ta im lặng một lúc lâu mới tung người nhảy xuống khỏi cây, đáp xuống bên cạnh Nhạc Vô Trần, phủi bụi trên tay áo, cười rạng rỡ: “Để dành cho ta ít Hàn Đàm Hương, tối nay ta về uống, đừng uống một mình đó.”
Nhạc Vô Trần ôn hòa đáp: “Nhất định.” Dứt lời, y phất tay áo đi về phía trước.
Nhìn chằm chằm bóng lưng Nhạc Vô Trần rời đi mà không quay đầu lại, Tạp La hơi ảo não nhưng hắn ta thỏa mãn rất nhanh.
Chờ đấy mà coi, không sớm thì muộn, không vội.
Nửa năm sau, Thanh Lương Cốc.
Một bóng người trắng tinh đạp gió bay vào cổng phía tây của Thanh Lương Cốc, đệ tử gác cổng chưa kịp hành lễ chào “Từ sư huynh”, bóng trắng ấy đã biến mất tăm.
Từ Hành Chi vội vàng chào Phù Diêu Quân và Chu Vân Liệt, đi vào trong điện của Ôn Tuyết Trần, Chu Bắc Nam và Khúc Trì đang đợi ở bên ngoài rồi. Cả gian điện đều mang vẻ nghiêm túc, trong điện loáng thoáng có tiếng kêu đau đớn của phụ nữ. Ôn Tuyết Trần ngồi ngay ngắn trên xe lăn ở ngoài sân, lưng cứng đờ, ngồi y như cái thước kẻ.
“Xảy ra chuyện gì?” Từ Hành Chi chưa đứng vững đã vội vàng la lên: “Không phải còn hai tháng nữa sao? Sao bây giờ đã sinh rồi?’
Ôn Tuyết Trần không nói gì.
Nữ hầu chăm sóc Chu Huyền hoảng sợ quỳ xuống: “Thưa Từ sư huynh, sáng nay phu nhân đi tản bộ, lúc bước xuống thềm bị trượt chân. Lúc đó phu nhân còn an ủi Ôn sư huynh nói không sao, nhưng từ lúc về, phu nhân lại bảo cơ thể không ổn…”
Từ Hành Chi nghe rõ ngọn nguồn, nhíu chặt mày lại.
Dù không hiểu việc mang thai nhưng ít nhất cậu vẫn hiểu với phái nữ, sinh con là chuyện cực kỳ nguy hiểm, tuyệt đối không thể lơ là, lần này vì chuyện ngoài ý muốn mà sinh sớm, tình hình càng thêm khó lường.
Tất nhiên Ôn Tuyết Trần rất lo lắng. Mặc dù hắn không bao giờ thể hiện vui giận ra ngoài nhưng chắc chắn lần này hắn đã chạm tới mép chứng tâm hỏa, môi tái nhợt, Khúc Trì đã đặt thuốc dưới lưỡi hắn trước, kẻo hắn không chống đỡ nổi mà xảy ra chuyện.
Bốn người chờ ngoài điện, khó tránh khỏi sốt ruột. Từ Hành Chi vừa phe phẩy quạt hạ hỏa cho bản thân vừa thảo luận các công việc cần làm khi đứa trẻ chào đời với Chu Bắc Nam và Khúc Trì.
Đầu tiên là đặt tên, theo ý của Từ Hành Chi, cậu hận không thể tập hợp đủ hết các tiên gia có học thức uyên bác trong bốn môn phái lại để bàn ba ngày ba đêm, chọn ra chữ tuyệt đẹp mới đủ tư cách làm tên cho con gái nuôi của cậu.
Chu Bắc Nam lườm cậu: “Đứa nhỏ biến thành con gái nuôi của ngươi từ lúc nào vậy?”
Đề tài thay đổi, quay sang chuyện sắp xếp địa vị của mấy cha nuôi.
Từ Hành Chi cười híp mắt nói với Khúc Trì: “Ta làm cha nuôi lớn.”
Khúc Trì không bao giờ tranh chấp với người khác về chuyện này, khoan dung mỉm cười, coi như đồng ý.
Nhận được sự đồng ý của Khúc Trì, Từ Hành Chi quay sang Chu Bắc Nam: “Chu mập, ta chắc chắn làm cha nuôi lớn rồi, ngươi đừng giành với ta. Việc gì cũng phải có thứ tự, đến trước xếp trước, đến sau xếp sau đúng không?”
“Ta làm cha nuôi cái rắm ấy.” Chu Bắc Nam chỉ muốn đạp cho Từ Hành Chi một phát: “Ta là cậu của đứa nhỏ.”
Từ Hành Chi: “…” Hoảng quá nên quên mất.
Khúc Trì nhận ra điều khác thường của Từ Hành Chi, vỗ lưng cậu, dịu giọng xoa dịu: “Hành Chi, ngươi đừng căng thẳng.”
Từ Hành Chi gấp cầm cái quạt, quạt thật mạnh, vẫn không thể làm bay mồ hôi lạnh to như viên bi: “Ta không căng thẳng. Ta căng thẳng chỗ nào chứ.”
Mấy người lại bàn tới giới tính của đứa trẻ, bàn xem sau này nên dạy dỗ thế nào, bao lâu về Ứng Thiên Xuyên một lần, bao lâu thì đưa tới Đan Dương và Phong Lăng chơi một vòng, bạc bàn đâu ra đấy, khá là hòa thuận.
Trong lúc đó, Ôn Tuyết Trần không hề chen vào câu nào, chỉ nhìn chằm chằm cánh cửa đóng chặt, vòng âm dương xoay như bay giữa các ngón tay, một bảo khí đạo môn đang yên đang lành lại bị hắn vân vê thành tốc độ đếm tràng hạt.
Lúc có tiếng kêu đau kìm nén trong phòng đột nhiên tăng cao, tay Ôn Tuyết Trần siết nhẹ, lại bóp vỡ một cái vòng âm dương.
Trong phòng bỗng có tiếng bước chân, nữ đệ tử đỡ đẻ mở cửa ra từ bên trong, mặt mày đậm ý cười: “Ôn sư huynh!”
Ôn Tuyết Trần không quan tâm tới đứa trẻ trước mà hỏi: “Huyền muội thế nào?”
Nữ đệ tử vui mừng ra mặt: “Thưa sư huynh, Ôn phu nhân rất khỏe, sinh được một cô nhóc, mẹ tròn con vuông!”
Khúc Trì khen ngợi thật lòng: “Nghe tiếng vang dội thế này, chắc chắn là một đứa trẻ khỏe mạnh.”
“Con gái rất tốt.” Khuôn mặt lạnh lùng của Ôn Tuyết Trần hơi ửng đỏ: “Chắc chắn sẽ tốt giống y như Huyền muội… Bây giờ Huyền muội thế nào, cơ thể vẫn ổn chứ?”
Nghe một người từ trước đến giờ luôn giữ quy củ nghiêm ngặt như Ôn Tuyết Trần mở miệng ra là Huyền muội, quên tôn xưng phu nhân lên chín tầng mây luôn rồi, nữ đệ tử không nhịn được che miệng khẽ cười: “Phu nhân mệt lắm, giờ đang nằm trên giường nghỉ ngơi.”
Ôn Tuyết Trần điều khiển xe lăn muốn vào trong, đúng lúc bà đỡ bế đứa trẻ vừa được tắm rửa sạch sẽ đi ra khỏi phòng, thấy Ôn Tuyết Trần muốn vào thì vội ngăn lại: “Công tử, trong phòng nồng mùi máu…”
“Ta sợ gì mùi máu chứ?” Giọng hắn vốn đã mang mấy phần mạnh mẽ, quay đầu nhìn sang thì thấy đứa trẻ bà đỡ bế thì thấy trong lòng ấm áp, giọng điệu dịu xuống hẳn: “Đưa ta. Để ta bế, đẩy ta đi vào.”
Chu Huyền nằm trên giường với gương mặt nhợt nhạt nhưng tinh thần rất tốt, thấy Ôn Tuyết Trần bế con gái được người ta đẩy vào trong phòng thì nhe răng cười, lông mi có mồ hôi li ti, càng khiến sắc mặt thêm phần trắng tái, mái tóc đen nhánh, thật sự khiến người ta đau lòng.
Ôn Tuyết Trần đến bên cạnh nàng, nhẹ nhàng đặt con gái xuống bên gối. Đứa nhỏ này da dẻ nhăn nheo đỏ hỏn, trông chẳng xinh xắn gì cho cam nhưng cặp phu thê mới lên chức cha mẹ này đều nhìn ra vẻ đẹp vô hạn trên gương mặt cô nhóc.
Chu Huyền nhẹ nhàng nói: “Chúng ta nói trước rồi, sau khi đứa trẻ ra đời, dù nam hai nữ đều lấy tên “Vọng”. Con gái tên Ôn Vọng, nhũ danh A Vọng, huynh thấy thế nào?’
Ôn Tuyết Trần lau giọt mồ hôi trên mi mắt nàng ấy: “Nghe theo muội hết.”
Nửa tháng sau, Từ Hành Chi đến Thanh Lương Cốc vì chuyện công việc lần nữa, may mắn nhìn thấy cảnh tượng đặc sắc: Vị sư huynh họ Ôn nào đó vừa xử lý công việc vừa dỗ trẻ con.
Ôn Tuyết Trần có lý lẽ của mình: “Huyền muội chưa ở cữ xong, không thể xuống giường, nếu đứa nhỏ khóc sẽ ảnh hưởng tới giấc ngủ của muội ấy, không tốt cho việc bình phục.”
Từ khi chuẩn bị làm phụ thân, Ôn Tuyết Trần đã tự làm một bộ sách dạy trẻ, nhân dịp bạn tốt đến chơi, hắn bèn hùng hồn dốc túi chỉ dạy: “Hành Chi, sau mấy ngày chăm con bé, ta đã nghĩ về sau này hết rồi. Đứa nhỏ lớn rồi thì không thể cưng chiều hơn, nhất là con gái, tuyệt đối không được nuông chiều, gì cũng phải học, gì cũng phải biết một chút, đi khắp núi sông nổi tiếng, biết hết muôn vẻ nhân gian, có phong thái phóng khoáng, mang tinh thần kiên cường, có thế mới là một cô gái ưu tú.”
Từ Hành Chi vươn tay gãi má, nghĩ: Thế chẳng phải là Chu Huyền sao?
Cậu lại nghĩ, chuyện này liên quan gì đến ta? Dù sau này ta ra sức cày ruộng cũng không thể khiến Mạnh Trọng Quang mọc quả dưa trên cây được.
Nhưng cậu là cha nuôi lớn, vẫn nên nghe kỹ lời này.
Bé con chìm trong giấc ngủ ngọt ngào như nghe thấy tiếng người trong phòng, ngáp một cái, đôi mắt đen láy mở ra, linh động đáng yêu y như con hoẵng. Nhưng dường như nhận ra trong phòng có thêm người lạ, cô bé mếu máo, khóc òa lên.
Ôn Tuyết Trần vừa mới nói không thể nuông chiều con trẻ với Từ Hành Chi xong, đương nhiên lúc này hắn muốn dùng bản thân làm gương cho người khác.
Hắn nghiêm túc đung đưa cái nôi, giảng giải với đứa nhỏ trong đó: “Không được khóc.”
Cô bé nghiêng đầu qua, khóc to hơn cả kèn xô na.
Ôn Tuyết Trần hơi mất tự nhiên: “Đừng khóc nữa.”
Cô bé chẳng chừa cho Ôn Tuyết Trần tí mặt mũi nào, khóc nấc luôn.
Ôn Tuyết Trần khẽ chậc một tiếng, quen cửa quen nẻo bế nhóc tổ tông giơ cả tay cả chân ra lên.
Nói ra cũng lạ, vừa mới được Ôn Tuyết Trần bế lên, tiếng khóc của Ôn Vọng đã nhỏ xuống, Ôn Tuyết Trần vỗ mấy lần, cô bé mang theo giọt nước mắt lóng lánh chẹp miệng nín luôn.
Từ Hành Chi nhìn mà ngứa ngáy, duỗi tay ra nói: “Cho ta bế.”
Ôn Tuyết Trần nhìn cậu, không định đưa cho cậu: “Ngươi không biết bế, sẽ bị ngã.”
Từ Hành Chi mỉm cười nhìn người bạn chí cốt, thật sự rất thích mùi vị khói lửa nhân gian trên người hắn.
Đứa nhỏ lớn nhanh như thổi. Khi A Vọng có thể đứng trên đầu gối Ôn Tuyết Trần tò mò gảy tóc bạc của hắn, Phong Lăng gửi thiệp mời tới bốn môn phái, trong thiệp mời nhắc tới chuyện đã nói trước đó, sắp tới Phong Lăng muốn tổ chức lễ mừng Nguyên anh.
Nhưng nhân vật chính của buổi lễ không phải Từ Hành Chi đã lên Nguyên anh trước đó mà là Cửu Chi Đăng.
Có lẽ vì trái tim chết lặng tình cảm tan vỡ, tu vi của Cửu Chi Đăng tăng vọt, trong vòng một năm đã vượt qua Kim đan cấp tám, cấp chín, bước vào cấp đại viên mãn, khoảng thời gian trước đã vào Ngọc Tủy Đàm – nơi Từ Hành Chi chuyên dùng để tu luyện, dẫn thiên lôi tới độ kiếp thành công, trở thành tu sĩ Nguyên anh thứ ba ở Phong Lăng.
Người tu đạo đạt được Nguyên anh trên thế gian rất hiếm, Cửu Chi Đăng lại là người thuộc Phong Lăng, lẽ ra phải mở một buổi lễ thật long trọng, chiêu cáo thiên hạ.
Mặc dù thân phận của Cửu Chi Đăng hơi lúng túng nhưng cậu ta gia nhập môn phái nhiều năm rồi, tự ý thêm yêu cầu gay gắt vào việc lớn thế này chỉ khiến người ta coi thường Phong Lăng, vì thế Nhạc Khê Vân – người bảo thủ nhất đắn đo suy nghĩ một hồi vẫn quyết định lo liệu cho cậu ta thật tốt.
Hôm ấy, bầu trời trong xanh, Cửu Chi Đăng mặc pháp phục màu trắng, đội mũ hoa sen, đúng chuẩn một tu sĩ cực kỳ đoan chính, mỗi một bước đều đúng lễ nghi, vừa có phong thái trang nhã với vạt áo đón gió, vừa khiến người ta có cảm giác yên lòng.
Từ Hành Chi mỉm cười đưa mắt nhìn đứa trẻ mình chăm sóc bước lên đài cao, nhận lễ vẩy nước sờ đầu, thấy trong lòng ngập tràn vui mừng, khó nói nên lời: Trưởng thành rồi, có tương lai rồi.
Mạnh Trọng Quang nhìn thấy hết biểu cảm của cậu, phồng má lên, nhân lúc mọi người đều đang dồn về phía Cửu Chi Đăng, hắn sáp tới cắn vào tai Từ Hành Chi, thì thầm gì đó.
Khi nghi lễ đầu tiên xong xuôi, Cửu Chi Đăng chỉnh vạt áo, lúc đứng dậy, ánh mắt cố ý nhìn xuống dưới đài muốn nhìn Từ Hành Chi.
Cậu ta nhìn thấy rồi.
Từ Hành Chi và Mạnh Trọng Quang đứng sóng vai bên nhau, Mạnh Trọng Quang ngoan ngoãn nói gì đó với Từ Hành Chi, chọc cho sư huynh vô cùng vui vẻ, đẩy ngực hắn cố gắng nhịn cười, theo khẩu hình thì chắc là cậu nói “Không biết xấu hổ”.
Tĩnh tâm tuyệt dục đã lâu, dù Cửu Chi Đăng cho rằng bản thân tuyệt đối sẽ không phân tâm vì chuyện tình cảm nữa nhưng cậu ta vẫn thấy mắt đau đớn.
Cậu ta như nhớ lại khoảng thời gian hạnh phúc khi ngủ cùng điện với Từ Hành Chi. Cậu ta không dám quấy rầy tiếp cận sư huynh, sợ làm hỏng thanh danh của sư huynh, đành phải cách một bức tường, dựa vào tiếng động ở bên kia tường để đoán sư huynh đang làm gì. Múa kiếm, tắm rửa, nói chuyện, tập viết, chỉ dùng tai nghe, cậu ta đã có thể tưởng tượng ra thú vị bất tận.
Từ khi Mạnh Trọng Quang dọn vào ở chung, âm thanh của một người biến thành hai người, từ đó về sau, chút xíu thú vị ấy của cậu ta cũng bị cướp mất.
Trong lồng ngực cậu ta khó chịu như nhét đầy cỏ dại.
Cậu ta nghĩ lung tung gì đó, lại như chẳng hề nghĩ ngợi điều gì. Trong cảm xúc lạ lùng ấy, Cửu Chi Đăng bỗng cảm thấy cơ thể mình hơi khác thường.
Ban đầu cậu ta chỉ coi đó là ảo giác nhưng cậu ta nhanh chóng phát hiện ra nó không đúng lắm.
Cỏ dại trong lồng ngực cậu ta như được một mồi lửa đốt cháy, bốc lên ngùn ngụt.
Cửu Chi Đăng trợn mắt lên, mơ hồ đoán rằng mình sắp nghênh đón gì đó.
Không, không.
Bây giờ không được, không thể…
Nhưng tất cả đều đã muộn. Cửu Chi Đăng bụm mặt, đau đớn quỳ xuống.
Nụ cười của Từ Hành Chi cứng đờ: “Tiểu Đăng?”
Nhạc Khê Vân bỗng đứng phắt dậy.
Xung quanh ồ lên. Có đệ tử thoáng ngớ người rồi cao giọng hô: “Thức tỉnh rồi! Huyết thống ma đạo của Cửu Chi Đăng thức tỉnh rồi!”
Cửu Chi Đăng trong bộ lễ phục nghiêm trang dùng hai tay che mặt nhưng khó mà che lấp vết loang lổ như con giun đỏ au bò hai bên má cậu ta.
Cảm nhận được linh mạch chảy ngược trong cơ thể mình một cách rõ rệt, Cửu Chi Đăng chỉ cảm thấy trời đất sụp đổ, chật vật quỳ gối lết lên trước, hét xuống dưới đài: “Sư huynh, đệ không, không muốn… Huynh giết đệ đi, sư huynh!”
Tạp La đứng cạnh Nhạc Vô Trần cũng không thể ngờ ngày vui lại xảy ra biến cố, bàn tay tụt ra khỏi tay áo vừa buông xuống đã bị Nhạc Vô Trần túm chặt.
Tạp La vừa mừng vừa ngờ vực nhìn sang Nhạc Vô Trần, còn tưởng là ảo giác của mình, bèn nắn bóp lòng bàn tay ấm áp ấy.
Chỉ bóp một cái, xúc cảm hệt như bóp trái tim mình, vừa tê vừa ngứa, khiến Tạp La không nhịn được hít sâu một hơi.
Nhạc Vô Trần nhìn chằm chằm Cửu Chi Đăng giãy giụa đau đớn trên đài, ra lệnh ngắn gọn: “Cứu hắn đi… Cứu Cửu Chi Đăng.”
Tạp La bỗng ngẩn người.
Nhạc Vô Trần nghiêng đầu nhìn Tạp La, trong mắt y ẩn chứa cảm xúc mà Tạp La không hiểu: “Ngươi biết phải làm thế nào.”
Giữ ngươi lại chỉ vì mục đích này.
Huyết thống ma đạo của Cửu Chi Đăng là một mầm họa to lớn, lần trước may mắn tránh được, nhưng ắt có một ngày, nó sẽ thức tỉnh. Đây là một kiếp nạn trong số mệnh của cậu ta.
Kiếp này, y muốn Hành Chi tốt đẹp mọi bề, Cửu Chi Đăng không thể rời khỏi Phong Lăng Sơn, vì thế huyết thống ma đạo của cậu ta không thể thức tỉnh thành công được.
Chỉ có con cháu ma đạo mang dòng máu dòng chính của ma đạo mới biết khắc chế huyết thống ma đạo thế nào, người ngoài cũng có thể dùng tâm pháp bí mật nhưng nó không được phép truyền cho người ngoài. Nếu lúc trước mình ngang ngược ép hỏi, Tạp La liều chết không theo, hoặc dạy y tâm pháp sai thì bao nhiêu công sức đều đổ sông đổ bể hết.
Điều Nhạc Vô Trần làm được chỉ có thể là khiến Tạp La – người từng là con trai dòng chính của ma đạo cam tâm tình nguyện để y sai bảo.
Y nhìn chằm chằm Tạp La, từng câu từng chữ như chất chứa tình cảm, nhưng lại như vô tình: “Cầu xin ngươi.”
Ba chữ “Cầu xin ngươi” vọng lại hai lần trong trái tim đập thình thịch của Tạp La.
Nhạc Vô Trần đưa ra lời cầu xin này chứng tỏ y biết hắn ta không mất trí nhớ.
Thế vì sao năm đó y vẫn chịu cho hắn ta vào núi…
Nhưng bây giờ không phải lúc suy ngẫm đắn đo, Cửu Chi Đăng đang đứng giữa ranh giới sinh tử, Tạp La nhanh chóng bình tĩnh lại, cúi người đặt tay lên vai Nhạc Vô Trần, con ngươi đen nhánh nhìn thẳng vào y không chớp mắt: “Người cầu xin ta thì ta sẽ đi… Yên tâm.”
Nói xong, hắn ta nhân lúc hỗn loạn, ngón tay véo nhẹ cằm Nhạc Vô Trần, lắc lắc vừa thân mật vừa ngả ngớn.
Trong tiếng ồn ào, Tạp La bước nhanh tới chỗ Cửu Chi Đăng và Từ Hành Chi đã xông lên đài ôm lấy cậu ta.
Nhạc Vô Trần làm như vô ý giơ mu bàn tay lên quẹt cằm, nhìn chằm chằm bóng lưng Tạp La, vui mừng vì kiếp nạn lớn được giải quyết, khó tránh khỏi bối rối trước hành vi thân mật quá mức của hắn ta.
Từ Hành Chi đã dùng linh lực dạo một vòng trên người Cửu Chi Đăng, tình trạng không ổn chút nào. Kinh mạch trong khắp cơ thể cậu ta đều chảy ngược, như nước lũ tràn đê, rất khó ngăn lại, nếu không nghịch chuyển huyết thống ma đạo cho cậu ta thì chưa đến một khắc, Cửu Chi Đăng sẽ chết vì mất hết kinh mạch.
Nhưng Cửu Chi Đăng chỉ muốn chết luôn cho rồi.
Thân thể cậu ta đau nhức như sắp tan chảy, khoé môi không ngừng tràn máu ra, lăn qua lộn lại thì thào xin chết, Từ Hành Chi nghe mà đau xót, đang định bế cậu ta rời khỏi chốn thị phi này thì một cái tay khác vươn tới.
“Để ta.” Tạp La lướt qua vai Từ Hành Chi, xé vạt áo trước của Cửu Chi Đăng một cách đơn giản và thô bạo: “Ta biết chữa cho hắn thế nào.”
Trong sự giày vò rán hầm với xương làm củi, máu làm dầu, đột nhiên nghe được câu đó, Cửu Chi Đăng đau đến mức tinh thần mê man bỗng mở mắt ra, dùng chút sức lực cuối cùng trên toàn thân nắm lấy cổ tay hắn ta, bấm cho Tạp La kêu lên.
Từ Hành Chi đỡ gáy Cửu Chi Đăng, ngạc nhiên nhìn Tạp La.
Tạp La bị đôi tay tràn ngập khao khát sống sót của Cửu Chi Đăng bấm cho đau không chịu nổi, căng cứng mặt vội vàng giải thích: “Sư phụ lén dạy ta.”
Từ Hành Chi quay sang nhìn Nhạc Vô Trần, y nghe thấy hết đoạn hội thoại của hai người, dùng ánh mắt tỏ ý Tạp La không nói dối.
Từ Hành Chi hơi yên tâm, trịnh trọng nói: “La sư đệ, ta giao Tiểu Đăng cho ngươi. Ngươi…”
“Thực hiện pháp thuật này không được để ai ở bên cạnh, ta cần một nơi yên tĩnh vắng người.” Tạp La không thích mấy nghi thức xã giao này, mà đã lâu hắn ta rồi không dùng tâm pháp ma đạo, có cứu được hay không còn chưa biết, vì thế hắn ta không đáp lời Từ Hành Chi mà nói thẳng: “Mượn Ngọc Tủy Đàm của ngươi nhé.”
Trong Ngọc Tủy Đàm với hơi mát lạnh vờn quanh, hai người một đen một trắng ngồi bên bờ, trên người đều bốc ra sương khói lượn lờ.
Tạp La đặt tay trên tim Cửu Chi Đăng, linh lực đổ vào đó như suối chảy, men theo mấy huyệt lớn do tâm pháp ma đạo chỉ dẫn, dần dần khơi thông và làm dịu huyết thống cuồng bạo trong cậu ta, đồng thời tăng thêm áp chế cho nó.
Lúc truyền linh lực, Tạp La không dám làm nhanh, cũng không thể làm chậm, mỗi một luồng linh lực đều phải giữ cố định, nếu không một khi kích thích vào tim, trừ giúp cậu ta chết nhanh hơn ra thì chẳng có lợi ích gì khác.
Pháp thuật này vừa mất công vừa tốn sức, trên mặt Tạp La đổ đầy mồ hôi nóng, người khỏe mạnh như hắn ta còn bị run tay, tới khi linh mạch chạy loạn trong cơ thể Cửu Chi Đăng dần lắng xuống, hắn ta ngã sang một bên với gương mặt tái mét, chống vào tảng đá ở bờ há miệng thở dốc.
May mà Cửu Chi Đăng ngất rồi, không có ai nhìn thấy dáng vẻ nhếch nhác này của hắn ta.
Khi cơ thể lấy lại chút sức lực, Tạp La vén mái tóc ướt mồ hôi ra sau rồi mới đi lo cho Cửu Chi Đăng bị hắn ta quăng một bên.
Thằng nhóc này mặc bộ đồ hào hoa lộng lẫy, lại có vẻ ngoài đoan chính yên tĩnh, là dáng dấp của một thanh niên tốt, lúc ngất xỉu mặt vẫn dính đầy nước mắt, cha mẹ nào nhìn đứa trẻ như thế cũng sẽ thấy mềm lòng thương xót.
Tạp La nhìn cậu ta, nghĩ tới cảnh tượng lần đầu tiên mình gặp Cửu Chi Đăng.
Đứa nhỏ này hệt như con gà con, gầy trơ xương, ngoan ngoãn dễ bảo, không có chút xíu phong thái của con trai tốt của ma đạo gì hết, lúc đó hắn ta chỉ muốn báo thù, hoàn toàn không coi đứa trẻ vô dụng ấy là một con người.
Bây giờ, Cửu Chi Đăng là người thân duy nhất mà hắn ta có thể nhìn thấy và ở gần.
Nhìn cậu ta một lúc, Tạp La vươn tay xoa đôi môi nứt nẻ của Cửu Chi Đăng, khẽ cau mày, hắn ta chấm ít nước trong Ngọc Tủy Đàm rồi lau máu bên khóe môi cậu ta, dùng tay còn lại kéo vạt áo lỏng lẻo của cậu ta lên.
“Quần áo đẹp.” Tạp La rì rầm: “Mặc cho cẩn thận, đừng cởi xuống. Nếu quay về ma đạo, đám ngươi kia sẽ ăn tên ngốc nhà ngươi chẳng còn mẩu xương nào.”
Cửu Chi Đăng nằm trên đất, không hề hay biết gì về lời răn dạy của thúc thúc.
Tạp La bỗng nổi cáu, vung tay lên vỗ mạnh vào đầu cậu ta: “Tên ngốc, chẳng có tiền đồ gì hết.”
Không khó đoán ra nguyên nhân Cửu Chi Đăng đột nhiên hóa ma, dù sao mấy năm qua Tạp La thờ ơ đứng ngoài xem cũng biết người đủ tư cách trở thành ác mộng trong lòng cậu ta chỉ có tên nhóc thối họ Từ thôi.
Bây giờ Cửu Chi Đăng chỉ thiếu một cơ hội để từ bỏ hết hi vọng.
Tạp La nghĩ, qua gần một năm nhõng nhẽo vòi vĩnh, cuối cùng vị tam sư huynh cố chấp không thua gì Nhạc Khê Vân cũng cố đấm ăn xôi chấp nhận sự thật đệ đệ mình đoạn tụ. Nếu có thể mau chóng công bố rộng rãi về hôn sự của Mạnh Trọng Quang và Từ Hành Chi, Cửu Chi Đăng bớt một ma chướng, hắn ta cũng có thể bớt nghe Nhạc Vô Trần nhắc tới Từ Hành Chi mấy câu, thế chẳng phải vẹn cả đôi đường sao?
Tạp La mang theo đầy bụng mưu mô xảo quyệt trả lại Cửu Chi Đăng mê man cho Từ sư huynh của cậu ta, chỉnh trang lại bản thân cho sạch sẽ mới quay về điện Thanh Trúc báo cáo.
Trong điện không có ai, hắn ta không rối loạn, lần tìm theo mùi rượu.
Quả nhiên, ở rừng trúc phía sau điện Thanh Trúc, Nhạc Vô Trần đang ngồi giữa rừng cây xanh ngắt. Y ngồi xếp bằng trước cái bàn trúc nhỏ được làm từ các cây trúc vàng, trên bàn có rượu có trà, trà là Phổ Nhĩ thượng hạng, rượu là Hoa Điêu cực phẩm.
Hai bên bàn trúc có hai cái đệm cói, có vẻ cái còn lại được chuẩn bị riêng cho hắn ta, Tạp La không khách sáo đi lên trước rồi ngồi xuống, cầm chén rượu lên uống một hơi cạn sạch.
Rượu được hâm nóng chảy vào họng một cách êm ái, hắn ta hà hơi một phát, mệt mỏi trên người bay biến hết.
“Tiểu Đăng thế nào rồi?” Nhạc Vô Trần hỏi.
Tạp La thờ ơ trả lời: “Nếu hắn chết thì ta bỏ chạy lâu rồi, đâu dám về uống rượu của ngươi nữa chứ?”
Nhạc Vô Trần cúi đầu nhấp rượu, che giấu ý cười bên khóe môi.
Tốt rồi, tốt rồi.
Mệnh trời khó trái thì y sẽ làm ngược ý trời, nuôi Tạp La mười mấy năm, cuối cùng biến hắn ta thành biến số xoay chuyển vận mệnh.
Từ nay, trên đời bớt một người đáng thương bị tâm ma cắn xé rồi thay đổi hoàn toàn.
Đương nhiên Tạp La không biết lý do thật sự khi tâm trạng Nhạc Vô Trần không tệ.
Thân phận bị vạch trần rồi, mấy nghi thức bên ngoài giữa sư phụ và đồ đệ đều bị Tạp La ném đi hết. Hắn ta chống một chân lên, liếc mắt nhìn Nhạc Vô Trần, khóe miệng nhếch lên, trong đôi mắt ngập tràn ánh sao: “Tạp La, La Thập Tam. Nhạc Vô Trần, có phải ngươi cố ý đặt cái tên kỳ cục ấy cho ta không?”
Nhạc Vô Trần khẽ cười, hàm răng hơi lộ ra.
Từ trước đến nay nét cười của y luôn nho nhã như thế, không có sức cuốn hút gì cả nhưng lại khiến Tạp La vô thức cười theo.
Tạp La vừa cười vừa nghiêng người qua: “Ngươi biết ta là Tạp La, biết ta không bị mất trí nhớ từ lâu rồi sao?”
Nhạc Vô Trần nói thầm: Chỉ đánh cược năm mươi năm mươi thôi.
Dù Tạp La mất trí nhớ thật thì cũng mất hết năng lực trước kia, không thể cứu Cửu Chi Đăng, chỉ có thể coi như Cửu Chi Đăng xấu số thôi. Sau khi cứu mạng cậu ta thì giữ cậu ta ở lại Phong Lăng, không cho cậu ta về ma đạo là được.
Nếu Tạp La không mất trí nhớ và đồng ý giúp đỡ, vậy thì tất cả mọi chuyện đều tốt đẹp.
Nói rõ ra hết rồi, Tạp La càng to gan hơn, cười hì hì nhìn Nhạc Vô Trần: “Ta giả vờ nhiều năm như thế, ngươi có giận không?”
Nhạc Vô Trần đáp: “Không giận.” Y giận gì chứ, y còn mong sao hắn ta không mất trí nhớ.
Tạp La nghe Nhạc Vô Trần trả lời khoan dung ôn hòa như thế thì mở cờ trong bụng, uống một ngụm rượu, gật đầu: “Quả nhiên sư phụ coi trọng ta rồi.”
“Nói linh tinh.”
Ngũ quan của Tạp La thâm thúy, vì thế hắn ta cười lên trông đầy ngả ngớn xấu xa: “Nhạc Vô Trần, ngươi cứ bảo ta nói linh tinh. Ngươi không hiểu thật hay cố ý giả ngu vậy?”
Trong lòng Nhạc Vô Trần vẫn luôn nghĩ tới chuyện sửa đổi số mệnh thành công, khẽ cười hỏi ngược lại: “Ta không hiểu gì cơ?”
Tạp La dứt khoát: “Ta ưng ngươi rồi đấy.”
Chén rượu Nhạc Vô Trần nâng lên khựng ở bên môi: “…”
Những năm gần đây, Tạp La đã quen nhìn thấy đủ loại dáng vẻ của y, hắn ta thích nhất y mơ màng ngơ ngác thế này, sáng sớm, say rượu hoặc gặp phải chuyện không hiểu, y đều có vẻ mặt mê man luống cuống thế này, quá ư quyến rũ.
Nhưng nghĩ y chẳng hiểu gì hết, Tạp La hơi bực, cứ cảm thấy mình nhiệt tình cho đã rồi nhận lại sự thờ ơ.
Như hắn dự tính, Nhạc Vô Trần từ chối: “Không được.”
“Tại sao?” Chuẩn bị trước rồi nên đương nhiên Tạp La sẽ không từ bỏ, giọng điệu khá điềm đạm nhã nhặn.
“Ta và ngươi là thầy trò. Trời, đất, vua, cha mẹ, thầy. Mơ tưởng sư phụ mình là trái với luân thường.”
“Sư phụ cái rắm, danh hờ thôi.” Tạp La khinh thường nói: “Nếu bàn về tuổi tác, ta còn hơn ngươi mấy tuổi. Hơn nữa ngươi nhận ta làm trò cũng chỉ nói miệng với người ngoài thôi, không dập đầu, không làm lễ công khai, không được tính.”
Tạp La chép sách nhiều năm như thế, tốt xấu gì cũng có chút phong thái trang nhã, nhưng tính nết lưu manh bá đạo đã ngấm sâu vào tận xương tủy, không dễ xóa bỏ.
Nghe hắn ta có vẻ không bịa chuyện vô lý, Nhạc Vô Trần hơi đau đầu.
Y đã nghĩ là nếu Tạp La có thể hóa giải kiếp nạn của Cửu Chi Đăng giúp y thì chứng tỏ người này có thể đặt chân trong chính đạo, nhưng không ngờ hắn ta vừa mới hoàn thành nhiệm vụ xong lại đưa cho mình câu hỏi khó thế này.
Thấy Nhạc Vô Trần có vẻ khó xử, Tạp La không thất vọng lắm.
Hắn ta tự biết trong lúc nhất thời không thể chiếm được trái tim người này, bây giờ nói rõ ra không phải ép y nghe theo, chỉ vì đúng lúc hôm nay đụng phải chuyện của Cửu Chi Đăng, cuối cùng hắn ta cũng giúp Nhạc Vô Trần một lần, nhất thời có thêm suy nghĩ và mong đợi thôi.
Mình xuất sắc thế này, theo thời gian, sao Nhạc Vô Trần không rung động cho được?
“Ta cứ nói rõ trước.” Hắn ta cắn mép chén rượu, uống cạn một chén, há miệng ra, để mặc chén rượu rơi vào lòng bàn tay, tinh thần phấn chấn nói: “Nhạc Vô Trần, ta chấm ngươi rồi đấy. Tạp La ta chọn ai rồi thì chẳng ai thoát được đâu, có là rãnh biển ta cũng sẽ xông vào, dù là lạch trời ta cũng sẽ lật tung. Ắt có một ngày, ta sẽ khiến ngươi cam tâm tình nguyện thông báo cho cả thiên hạ biết Tạp La này là bạn đời của ngươi.”
Nhạc Vô Trần cười một tiếng không rõ có ý gì.
Tạp La nhíu mày: “Ngươi cười gì chứ?”
Nhạc Vô Trần nhìn hắn ta, đôi mắt thấm men say hơi híp lại.
Xuyên qua gương mặt này, Nhạc Vô Trần nghĩ tới kiếp trước xa xôi của mình, nghĩ đến khuôn mặt căm phẫn, tay phải gãy nát, tiếng rên tuyệt vọng của Hành Chi lúc bị bôi nhọ.
Thiếu niên do một tay y nuôi lớn đang gọi y, “Sư phụ”, “Sư phụ”, tiếng nào cũng đẫm máu và nước mắt nhưng lúc đó y không thể nắm lấy bàn tay ấy, bù đắp sai lầm năm đó của mình dù chỉ chút xíu.
Nhạc Vô Trần không nói ra suy nghĩ chân thật trong lòng mà nhẹ nhàng nói lảng đi: “Ta nhớ khi ngươi còn bé từng đọc ‘lạch trời’ thành ‘chặt trời’.”
Tạp La đỏ mặt, hơi xấu hổ: “Nhắc cái này làm gì? Uống rượu, uống rượu đi.”
Nhạc Vô Trần rót một chén cho Tạp La. hắn ta cầm lên, phóng khoáng nói: “Dù sao cũng nói ra rồi, sau này trong lúc ở riêng ngươi gọi ta là Tạp La đi.”
Nhạc Vô Trần bình thản từ chối: “Không quen.”
Tạp La chống một khuỷu tay lên bàn trúc, hỏi y: “Tạp La và La Thập Tam, ngươi thích ai hơn?”
“Đều là ngươi, có gì khác biệt?”
Tạp La cười: “Ngươi thích ai thì ta sẽ là người đó.”
Nhạc Vô Trần lắc đầu nói: “Lời trẻ con.”
Tạp La không vui khi Nhạc Vô Trần đối xử với mình như trẻ con, cứ như y sống nhiều hơn hắn ta tám mươi đến một trăm năm năm vậy. Nhưng hắn ta biết nhanh quá hóa dở, vì thế không nói về chuyện này nữa mà bảo: “Buổi lễ mừng của tứ sư đệ không được trọn vẹn, chuyện này truyền ra ắt sẽ không dễ nghe, Phong Lăng tổ chức thêm một chuyện vui lớn thật long trọng nữa để đè chuyện này xuống đi.”
Nghe thấy ba chữ ‘chuyện vui lớn’”, Nhạc Vô Trần nở nụ cười đơn thuần như đứa trẻ: “Phải, mau chóng làm thôi.”
Trong Man Hoang, Chu Bắc Nam hoàn thành nhiệm vụ áp giải một con rắn mối kỳ dị vào đây, dẫn theo mười đệ tử bao gồm cả Trình Đỉnh, đi về nơi mở cổng đã hẹn với phụ thân từ trước.
Trên một vách núi cách bọn họ hơn nửa dặm, có một đôi mắt đang lặng lẽ rình nhóm người.
“Nhìn trang phục có thể thấy nhóm đạo sĩ thối này là người của Ứng Thiên Xuyên, tới đây tuần tra hoặc đày quái vật phạm tội.” Sau khi quan sát một lúc, Chúc Đông Phong nêu đề nghị với người đằng sau: “Vương thượng, có cần giết bọn chúng rồi hấp thụ tu vi của bọn chúng không? Hay là theo đuôi bọn chúng, chờ cánh cổng Man Hoang mở ra, chúng ta chạy khỏi nơi quỷ quái này?”
Người được gã gọi “Vương thượng” là một người đàn ông khôi ngô tên Nam Ly.
Hắn ta hờ hững xoa cái khèn mình mới làm, liếc mắt nhìn về phía nhóm đệ tử kia: “Cánh cửa Man Hoang chỉ mở ở trong bốn môn phái, ngươi định chạy thẳng tới nhà người ta chịu chết à?”
Chúc Đông Phong nóng lòng muốn thử: “Thế thì giết hết?”
“Nhìn thấy tên đi đầu chưa?” Nam Ly dùng khèn chỉ về phía bọn họ: “Nhìn trang phục, người đó là đệ tử cấp cao ở Ứng Thiên Xuyên, chúng ta lấy mạng hắn, chắc chắn sẽ bị bốn môn phái trả thù. Chẳng lẽ ngươi chê cuộc sống của chúng ta ở Man Hoang thoải mái quá hả?”
Chúc Đông Phong không cam lòng: “Thế cứ để bọn chúng đi qua dễ dàng thế ư?”
Nam Ly thuận miệng nói đùa: “Nếu một ngày nào đó hắn sa cơ thất thế bị đày vào đây thì chúng ta tiếp đãi hắn thật đàng hoàng cũng không muộn.”
Chúc Đông Phong không thể làm gì khác hơn là từ bỏ suy nghĩ vô nghĩa của mình, quay đầu nhìn lại bỗng giật nảy mình.
Có một tên đệ tử Ứng Thiên Xuyên đứng lại, nhìn thẳng về phía hai người họ.
Chúc Đông Phong cau mày thật chặt, lặng lẽ siết cán kiếm bên hông, thầm lo lắng.
Rõ ràng gã và Vương thượng đã che giấu hơi thở và thân đi rồi, một tên đạo sĩ trẻ tầm thường lại có thể nhìn thấy bọn họ ư?
Bây giờ tu vi của đạo sĩ thối bên ngoài Man Hoang đã đạt đến trình độ này rồi sao?
Chu Bắc Nam vừa đi vừa trông nom các đệ tử, chỉ sợ có người bị tụt lại, lần này vừa quay đầu lại đã thấy một đệ tử dừng chân không đi, cậu ta đanh mặt, gằn giọng quát: “Cái người kia, Diệp gì ấy, ngẩn người gì thế?”
Diệp Bổ Y vừa mới thông qua cuộc thi ở buổi tế lễ Đông Hoàng, khoác lên mình trang phục của đệ tử nội môn theo ý nguyện, cậu đang nhìn vách đá cao chót vót cách đó nửa dặm rồi thất thần, nghe tiếng gọi mới như bừng tỉnh khỏi giấc mộng, nhấc chân chạy theo, khúm núm đáp: “Chu sư huynh, đệ…”
Chu Bắc Nam không khách sáo chút nào: “Vào Man Hoang mà còn mất tập trung như thế, có con mãnh thú xông ra tha ngươi đi mất thì ngươi mới biết sợ!”
Diệp Bổ Y ngậm miệng, cúi đầu nhận sai: “Chu sư huynh, đệ tử biết sai rồi, không dám lơ là nữa.”
Nhìn đôi mắt vô tội, rưng rưng nước mắt của cậu, Chu Bắc Nam bỗng nhớ tới đôi mắt khác.
Đôi mắt ấy vừa to vừa sáng, trắng đen rõ ràng, nhưng luôn chứa sự kiên cường như cỏ dại, khiến người ta không nhịn được muốn xoa mặt.
Cơn giận của Chu Bắc Nam bỗng chốc bị xua tan hơn nửa, khẽ ho một tiếng, mím môi kiềm chế ý cười, cố gắng tỏ vẻ nghiêm khắc: “Đi thôi đi thôi, đừng làm trễ giờ thêm nữa!”
Lúc đội ngũ tiếp tục đi về phía trước, Diệp Bổ Y không nhịn được quay đầu lại nhìn lần nữa.
Hoa trên vách núi đó rất đẹp, đỏ như mây ráng chiều, tung bay nhiệt tình, giống như ngọn lửa trời rơi xuống thế gian, cậu chưa từng nhìn thấy nó ở thế giới bên ngoài bao giờ, e rằng sau này cũng không có duyên nhìn thấy thêm lần nào nữa.
Nam Ly ngồi giữa bụi hoa La Hán, tiện tay ngắt một cành cầm ngắm nghía, nghe thấy Chúc Đông Phong báo lại, không để ý lắm mà ngước lên nhìn theo, đúng lúc chạm mắt với đôi mắt phía xa.
Cậu không nhìn thấy Nam Ly nhưng Nam Ly có thể nhìn thấy cậu.
Chỉ trong khoảnh khắc, Nam Ly hơi ngây người, bỗng đứng dậy, bước ra rìa vách núi mấy bước.
Chúc Đông Phong nghi hoặc: “Vương thượng, sao thế?”
Nam Ly nhìn bóng lưng tiểu đạo sĩ quay người đi, thì thầm như có điều suy nghĩ: “Đôi mắt hắn, giống một người quen cũ.”
Vừa mới ra khỏi Man Hoang, Chu Bắc Nam chưa kịp đi tắm đã có một bức thư được in dấu sáp màu đỏ vàng được đưa tới, nói là thư của Phong Lăng gửi đến.
Chu Bắc Nam nhận thư, mở sáp niêm phong ra, mới liếc qua một cái đã cau mày lại.
Trình Đỉnh vốn có hẹn cùng tới bể tắm nước nóng tắm gội với cậu ta thấy vẻ mặt cậu ta không ổn thì hỏi: “Chu sư huynh, làm sao thế?”
Chu Bắc Nam hừ thật mạnh: “Đoạn tụ chết tiệt!”
Trình Đỉnh: “…?”
Chu Bắc Nam nhấc chân lên, hùng hổ đi ra ngoài: “Nam với nam ở bên nhau thì thôi đi, còn làm lễ thành hôn đàng hoàng nữa, không ngại mất mặt hay gì!”
Trình Đỉnh ngạc nhiên, sau đó buộc chặt thắt lưng lỏng lẻo lại, đuổi theo nói: “Chu sư huynh, không tắm nữa sao?”
“Tắm táp gì nữa?” Chu Bắc Nam xua tay: “Trình Đỉnh, ngươi cũng qua đây đi, tới kho riêng của ta chọn mấy món bảo bối giúp ta, càng nổi tiếng và quý giá càng tốt. Tên họ Từ gây chuyện tai tiếng thế này, dù thế nào Chu Bắc Nam ta cũng phải lấy lại thể diện cho hắn!”
Những người tu tiên trên đời, nam nhiều nữ ít, đạo lữ cùng giới không hiếm thấy nhưng hầu hết bọn họ chỉ báo cho sư tôn, quân trưởng rồi lặng lẽ dọn đến ở cùng nhau là được, ai dám gióng trống khua chiêng tổ chức hôn sự, thông báo cho toàn thiên hạ biết?
Nhưng Từ Hành Chi và Nhạc Vô Trần, không ai là người cần thể diện.
Nếu muốn làm thì phải làm thật to, tốt nhất là làm cho cả thiên hạ đều biết.
Công việc chuẩn bị cho hôn sự, việc nào việc nấy đều rườm rà. Bà mối tới hỏi cưới, lễ vấn danh, lễ đính hôn, tặng sính lễ và trả lễ, chọn ngày lành, lễ thành hôn, mỗi một phân đoạn đều phải suy xét tỉ mỉ, không được sai sót chỗ nào.
*Lễ vấn danh: trao đổi ngày tháng năm sinh, tìm hiểu gia đình hai bên…
Nhạc Vô Trần cởi bỏ trạng thái biếng nhác ngày trước, vùi mình trong điện Thanh Trúc suốt cả ngày, đồ đạc bày trên bàn đều là các thứ cần có trong hôn lễ của Từ Hành Chi, trên thì cần thêm gì vào danh sách sính lễ, dưới thì cần treo lồng đèn gì trên hành lang ngày thành hôn, chuyện gì y cũng muốn đích thân lo liệu.
Nhạc Khê Vân không hiểu sao sư huynh lại sốt sắng một cách lạ thường như thế: “Sư huynh, huynh quyết định xem uống rượu gì vào bữa tiệc là được rồi, cần gì phải việc gì cũng muốn tự làm, nhọc lòng nhọc sức như thế?”
Nhạc Vô Trần đối chiếu danh sách khách mời, cẩn thận viết thêm lời chú thích đã duyệt lại: “Hành Chi không cha không mẹ, ta phải để ý hơn mới được.”
Nhạc Khê Vân dở khóc dở cười: “Môn phái có nhiều việc lắm mà, sao không thấy huynh bận lòng thế này?”
Nhạc Vô Trần sững sờ, chậm rãi nói: “Hả? Không phải có Khê Vân rồi đó sao?”
Nhạc Khê Vân: “…”
Nhạc Khê Vân bị vị sư huynh này mài cho không biết tức giận là gì nữa rồi.
Hai người cùng gia nhập môn phái từ nhỏ, cùng nhau lớn lên. Trước giờ Nhạc Khê Vân luôn kính trọng Nhạc Vô Trần, trong mắt hắn, sư huynh nên là người lánh đời mua một chén rượu, say khướt nằm trên nương dâu, thân phận sơn chủ Phong Lăng Sơn không thể trói buộc y. Vì thế Nhạc Khê Vân dốc hết sức đảm đương, xử lý công việc thế gian, để sư huynh yên tâm làm tiên rượu.
Nhưng mà, Từ Hành Chi đến khiến sư huynh bằng lòng bước vào hồng trần.
Như thế lại thấy được rằng vỏ quýt dày có móng tay nhọn quả là châm ngôn từ xưa tới nay.
Thôi thôi thôi, nếu y vui thì cứ để y nghiên cứu xem nên làm mấy bàn tiệc vào lễ thành hôn của đồ đệ y vậy.
Một người vui mừng một người sầu lo. Nhạc Vô Trần với một bình rượu Tiêu Tương, một cái bút đỏ, bận rộn mà vui vẻ vì hôn sự của Từ Hành Chi, nhưng gần đây tâm trạng Tạp La càng ngày càng tệ.
Từ lúc hắn ta bày tỏ lòng mình với Nhạc Vô Trần, hai ngày sau, Nhạc Vô Trần bắt Tạp La dọn ra khỏi điện Thanh Trúc, sắp xếp tòa điện mới cho hắn ta.
Người trong núi đều không nhận ra điều gì không ổn.
Tạp La không còn là đứa trẻ Thanh Tĩnh Quân nhặt về núi lúc trước từ lâu rồi, ở chung một điện với sư phụ, chắc hẳn có nhiều bất tiện. Bây giờ dọn ra, Thanh Tĩnh Quân chọn gian điện rất gần với điện Thanh Trúc cho hắn ta, cưng chiều dành cho hắn ta chưa hề giảm bớt chút xíu nào.
Chỉ có Tạp La thấy cực kỳ không ổn.
Mình muốn thân thiết với y lại khiến y ghét đến thế ư? Đến mức đuổi mình ra ngoài?
Buổi tối đầu tiên dọn vào điện mới, lần đầu tiên trong đời Tạp La nếm trải mùi vị nằm một mình khó ngủ, ôm chăn lăn qua lộn lại trên giường, cuối cùng không thể nhịn được nữa, đi chân trần xuống giường, vẩy ít rượu trắng trong phòng, sau đó kéo đệm chăn xuống đất, trải cho phẳng phiu rồi nằm xuống.
Hắn ta tức giận nghĩ, mẹ nó chứ sao ông đây hèn hạ thế, có giường không nằm lại đi nằm ra sàn.
Nghĩ đi nghĩ lại, tức rồi lại tức, hắn ta thành công chìm vào giấc ngủ.
Nhưng tới nửa đêm, mùi rượu bay đi hết, hắn ta thức giấc. Ánh trăng trên trời chia một nửa ánh sáng luồn qua cửa sổ, làm nổi bật cái giường trống trơn, không có bóng người nằm nghiêng và hít thở đều đều, Tạp La khó chịu tới nóng ruột.
Hắn ta buồn bực đập chăn.
Mẹ nó, tên họ Nhạc ức hiếp người ta quá đáng!
Nếu đã không ngủ được, Tạp La vươn mình ngồi dậy, khoác ánh trăng mà đi về phía điện Thanh Trúc.
Trong điện Thanh Trúc vẫn có ánh nến chập chờn, cửa điện chưa đóng, Tạp La nhẹ nhàng đẩy cửa đi vào, thấy Nhạc Vô Trần nằm trên bàn ngủ quên, gò má ép xuống quyển trúc.
Dáng vẻ không chút đề phòng của Nhạc Vô Trần đánh tan hơn nửa khó chịu trong lòng Tạp La, Tạp La chậm rãi đến gần, cúi người ôm lấy vai y, định bế y lên giường.
Bị người khác chạm vào, Nhạc Vô Trần tỉnh dậy ngay, nhưng hai mắt mơ màng, lông mi dài mềm rũ xuống vì buồn ngủ, khóe mắt lười biếng cụp xuống còn hơi ửng đỏ, buồn cười nhất là trên mặt y còn dính vết mực đỏ, hệt như con mèo trắng vừa ngủ dậy.
Tạp La cười ra tiếng. Hắn ta dùng cổ tay áo lau mặt cho Nhạc Vô Trần, vô cùng hứng thú dỗ dành y: “Đừng ngủ ở đây. Ta đưa ngươi về giường.”
Nhạc Vô Trần bừng tỉnh khỏi cơn ngái ngủ, không hiểu Tạp La nói gì lắm, sững sờ nhìn hắn ta, để mặc hắn ta lau.
Lau mãi, lau mãi, Tạp La cảm thấy trong người lại nóng lên.
Vết mực đỏ này như dấu hôn mờ nhạt ám muội, làm cho trái tim hắn ta thắt lại.
Hắn ta nghĩ sao một người lại có thể đẹp như Nhạc Vô Trần thế nhỉ, hắn ta muốn xoa đuôi mắt đẹp đẽ của người này, hắn ta nghĩ liệu đây có phải cái gọi là mến mộ hay chăng, hắn ta nghĩ tại sao Nhạc Vô Trần hại hắn ta ra nông nỗi này rồi mà hắn ta vẫn mến mộ y.
Dù hắn ta nghĩ gì, đầu ngón tay của hắn ta đã mất khống chế mà xoa má Nhạc Vô Trần.
Nhưng không ngờ chỉ vừa mới khẽ chạm vào, Nhạc Vô Trần đột nhiên túm lấy cổ tay hắn ta.
Lúc tiếng xương răng rắc vang lên, Tạp La tưởng tay mình gãy luôn rồi.
Ánh mắt mơ màng của Nhạc Vô Trần bỗng tỉnh táo lại, sự sắc bén ác liệt xuất hiện chỉ trong nháy mắt khiến một nửa cơ thể Tạp La rét lạnh, nhìn Nhạc Vô Trần với vẻ không thể tin nổi, hàng lông mày rậm hơi chau lại.
Bên y sớm chiều nhiều năm, đây là lần thứ hai hắn ta nhìn thấy Nhạc Vô Trần thể hiện hết sát ý ra ngoài.
Nhạc Vô Trần cũng nhận ra mình thất thố, buông tay ra, ra lệnh ngắn gọn: “Đừng chạm vào ta.”
Sau khi ngạc nhiên lúc đầu trôi qua, Tạp La thấy hơi ấm ức.
Hắn ta có định làm gì Nhạc Vô Trần đâu! Dựa vào đâu mà y đề phòng mình như trộm cướp vậy chứ?
Trước kia mình và y ở chung một phòng, mình có thể lấy mạng y bất cứ lúc nào, y vẫn luôn tươi cười đón chờ, đâu có nghiêm nghị thế này bao giờ?
Nghĩ tới nghĩ lui, Tạp La chỉ có thể đoán tại mấy ngày trước mình nhanh mồm nhanh miệng quá.
Nhạc Vô Trần chưa có kinh nghiệm, chắc là bị lời bày tỏ của mình hôm đó dọa sợ?
Nghĩ đến đây, trái tim Tạp La bỗng mềm nhũn ra.
“Không phải ta muốn mạo phạm ngươi. Ngươi…” Tạp La cà lăm một cách hiếm có: “Trên mặt ngươi có vết bẩn, ta muốn lau giúp ngươi.”
Nhạc Vô Trần cụp mắt xuống, che đậy sự sắc bén trong mắt, giọng điệu lại nhẹ nhàng như trước: “Cảm ơn.”
“Cảm ơn gì chứ?” Cơn giận vừa mới dịu xuống của Tạp La lại bị tiếng cảm ơn này dấy lên: “Ngươi và ta cần gì phải khách sáo như thế?”
Nhạc Vô Trần nói: “Sư đồ vốn phải như thế.”
Mắt Tạp La như muốn phun lửa: “Ai muốn làm sư đồ vớ vẩn đấy với ngươi? Ta…”
Nhạc Vô Trần hỏi ngược lại: “Ngươi muốn thế nào?”
Y đặt câu hỏi với vẻ ôn hòa nhã nhặn như thế khiến Tạp La không cáu nổi. Ngươi ngươi ta ta ấp úng một lúc lâu, hắn ta nhìn khóe mắt vẫn chưa hết hồng nhạt của y một lúc, trái tim lại ươn hèn mà mềm nhũn xuống.
Thế nào được chứ? Hắn ta đâu thể trói Nhạc Vô Trần rồi bắt đi.
Nếu là ma tôn Tạp La ngày trước, chắc chắn hắn ta sẽ làm thế mà chẳng cần suy nghĩ, nhưng Tạp La của bây giờ thì không làm được.
Đây là Nhạc Vô Trần đó, là Nhạc Vô Trần trầm tĩnh tự tại, không dính bụi trần.
Mấy năm qua, y độc chiếm trái tim Tạp La, chi phối toàn bộ cảm xúc của hắn ta. Lúc đầu là thù hận hừng hực, sau đó là yêu tha thiết, từ đầu đến cuối, Nhạc Vô Trần đều chiếm cứ toàn bộ trái tim hắn ta. Để mặc y ở đó đã lâu, vừa nãy Tạp La mới giật mình, hắn ta không nỡ để y dính một chút bụi nào.
Tạp La đành phải chật vật cách xa Nhạc Vô Trần ra, nhưng hắn ta tự cảm thấy không thể mất khí thế, đứng vững lại thì quăng ra một câu gay gắt: “Sư phụ, sớm muộn gì cũng có một ngày người đồng ý ở bên ta.”
Nhạc Vô Trần ấn huyệt thái dương căng đau, khẽ cười nói: “Thập Tam, ta với ngươi tuyệt đối không có khả năng.”
“Vì sao không?” Gân trên trán Tạp La nảy thịch lên.
Nhạc Vô Trần trả lời ngắn gọn đanh thép: “Không là không.”
Tạp La không hài lòng về lý do từ chối quanh co ấy.
Cũng chỉ vì tư tưởng cổ hủ của tu sĩ chính đạo, không thể chấp nhận sư đồ ở bên nhau, người khác bàn tán thôi. Mấy năm qua Nhạc Vô Trần coi trọng mình như thế, Tạp La không tin y không có chút xíu tình nghĩa gì với mình!
Tới khi mình lên cấp Nguyên anh, tu luyện đến địa vị tương đương với y, Tạp La xem ai dám chạy tới trước mặt hắn ta lộng ngôn về tôn ti sư đồ gì đó, tam cương ngũ thường này kia!
Nhạc Vô Trần mặc kệ Tạp La dậy cơn sóng trong lòng cuồn cuộn, tiễn Tạp La không phục đi, y còn rất nhiều chuyện phải làm.
Sau khi tính bát tự, đề cử nhiều lần, ngày quan trọng của Từ Hành Chi và Mạnh Trọng Quang được quyết định vào ba tháng sau.
Ngày mồng tám tháng sáu, hợp cưới gả.
Mấy hôm trước, đúng ngày mồng ba tháng ba, hoa đào ở Đan Dương Phong nở rộ nhất.
Khúc Trì bước vào rừng đào ở lưng chừng núi, cây phất trần xưa nay không bao giờ rời khỏi người lại được hắn đặt trong điện, một cái rổ trúc được bện rất tinh xảo lẳng lặng nằm trên khuỷu tay, bên trong đã có một lớp cánh hoa đào mỏng.
Chọn cánh hoa đào đẹp nhất, ép lấy tinh chất của nó, có thể luyện ra đan hoa đào. Đan hoa đào có hình dáng đẹp đẽ, hạt nào hạt nấy đều có hình hoa đào, đặt ở đó trông vừa đẹp vừa thú vị, càng có lợi với điều hòa âm dương, Khúc Trì định tự mình luyện một hộp làm một trong các món quà cưới tặng cho Từ Hành Chi.
Khúc Trì rất ưu tú, được rất nhiều đệ tử ngưỡng mộ, đệ tử ngoại môn làm việc ở vườn đào nhìn thấy Khúc Trì tự mình đến hái hoa đào thì không ai không tỏ vẻ ngưỡng mộ, nhưng lại chẳng dám đến gần, chỉ dám trốn sau cây, ngắm nhìn từ xa.
Khúc Trì không muốn quấy rầy các đệ tử làm việc nên giả bộ không biết, chăm chú lựa cánh hoa trên cành cây.
Trong lúc hắn nhón một cành rất đẹp, phía sau bỗng vang lên tiếng nói nhỏ nhẹ, bé đến mức không phân biệt được là giọng nam hay giọng nữ: “Khúc, Khúc sư huynh…”
Gió mát thổi qua, hoa lá rung rinh, Khúc Trì nghe thấy tiếng thì nhìn sang, thấy một đệ tử nâng cành hoa đào trên tay, co ro đứng dưới cây đào, ngóng nhìn hắn.
Thiếu niên có gương mặt rất giống con gái, mắt như trăng trong nước, vẻ ngoài giống phụ nữ lại xuất hiện trên cơ thể đàn ông, thật sự hơi lạ, nhưng nói thật thì không hề khó coi.
Khúc Trì nhìn thẳng vào gương mặt cậu ấy ngẫm nghĩ một lúc rồi đưa ra tên và nơi ở của người quen cũ một cách chuẩn xác: “Đào Nhàn ở núi Đại Ngộ?”
Thiếu niên tên Đào Nhàn hơi ngạc nhiên, sau đó mừng khôn xiết: “Khúc sư huynh, huynh, huynh vẫn nhớ ra đệ sao?”
“Nhớ chứ.” Đầu ngón tay Khúc Trì ngắt hoa, nở nụ cười ấm áp: “Tiểu Đào Nhàn thích khóc.”
Đào Nhàn nhìn nụ cười của hắn bằng vẻ si mê, vô thức nhếch miệng cười theo hắn.
“Vào môn phái bao lâu rồi?” Khúc Trì hỏi cậu ấy.
“Mấy tháng rồi ạ.” Đào Nhàn hơi đỏ mặt: “Đệ muốn tìm Khúc sư huynh, trả, trả ơn, chính thức xin gia nhập môn phái, Đan Dương Phong nhận đệ, cho đệ ở đây trông coi rừng đào, đuổi sâu bọ quét lá.”
Khúc Trì cười nói: “Ơn nghĩa gì chứ, tiện tay giúp đỡ thôi. Đệ cũng coi như là người quen cũ và bạn bè của ta. Gửi một lá thư thăm hỏi vào nội môn, trình bày rõ tình hình, chúng ta có thể gặp lại.”
Nghe hắn nói vậy, Đào Nhàn lại đỏ mặt: “Thư thăm hỏi? Đệ, không biết chữ.”
Cậu ấy lại sốt sắng bổ sung: “Đệ vào núi, chỉ cần có thể làm, chuyện trong khả năng, cho sư huynh, nhìn từ xa thôi, đệ, cũng thấy vui lắm rồi.”
Khúc Trì nhìn thiếu niên nhút nhát căng thẳng, tâm trạng bỗng vô cớ vui lên, muốn nói thêm với cậu ấy nhưng Đào Nhàn lại như chim sợ cành cong, tự giác nói: “Sư huynh làm việc của mình trước đi. Đệ có một món quà, muốn tặng sư huynh, nhưng bây giờ đệ chưa mua. Bây giờ đệ, xin nghỉ xuống núi, mua cho sư huynh.”
Khúc Trì nhận ra Đào Nhàn là một đứa trẻ dễ căng thẳng và xấu hổ, bất cứ lời từ chối nào với cậu ấy đều hơi tàn nhẫn, vì thế hắn bèn tháo lệnh bài ngọc xuống, ôn hòa nói: “Được. Lấy cái này làm tín vật xuống núi… Ta chờ đệ.”
Khúc Trì biết Đào Nhàn có xuất thân bình thường, dù muốn tặng cũng không tặng đồ đắt đỏ, vì thế tiễn Đào Nhàn đi xong, hắn tiếp tục yên tâm hái hoa đào, sau đó quay về nội môn, ra lệnh cho đệ tử dùng vải the bọc cánh hoa lại rồi giã thành chất lỏng.
Lúc hắn về điện, đúng lúc thấy nhị sư đệ Lâm Hảo Tín nâng một cái đĩa sứ trắng và lệnh bài ngọc của mình đi từ bên ngoài vào.
Trên mặt Lâm Hảo Tín đầy ý cười, hiển nhiên là thấy hơi buồn cười vì món quà bất ngờ này: “Khúc sư huynh, đệ tình cờ gặp được một đệ tử ngoại môn, đây là đồ hắn nhờ đệ gửi cho huynh.”
Nhìn thấy món đồ đó, Khúc Trì ngẩn người, bỗng nhếch môi cười.
Hắn vươn tay nhận đĩa và lệnh bài, nói: “Lâm sư đệ, cảm ơn hắn giúp ta nhé.”
Khúc Trì nâng cái đĩa lên, quay người định đi, ngay khi bước lên thềm, hắn bỗng dừng chân, nghĩ gì đó rồi xoay người lại nói: “Lâm sư đệ, đệ dẫn hắn vào… Gần đây trong điện của ta thiếu một hầu cận.”
Lâm Hảo Tín hơi ngây người, không hiểu cậu nhóc có vẻ ngoài giống con gái kia làm thế nào mà lọt vào mắt xanh của Khúc sư huynh, nhưng Khúc Trì đã lên tiếng, đương nhiên hắn ta phải nghe theo mà làm: “Vâng.”
Khúc Trì đi vào trong điện, đặt cái đĩa lên bàn.
Trên đĩa sứ có một xiên kẹo hồ lô, cực kỳ giống xiên mà hắn mua cho Đào Nhàn lúc nhỏ. Trái cây đỏ tươi quả nào quả nấy tròn xoe, lớp đường vàng óng trong suốt bao bọc lấy nó, được ánh nắng chiếu rọi, món ăn vặt đầu đường tầm thường lại có đôi phần xa hoa quý giá.
Nhìn ngắm một lúc, Khúc Trì nắm một đầu xiên tre, cầm cây kẹo hồ lô lên, đặt miệng vào phần chóp, cắn nửa quả sơn tra.
Thoạt đầu, hắn bị chua tới mức nheo mắt lại, nhưng nhấm nháp một lúc lại thấy trong miệng ngập tràn hương vị ngọt ngào.
Hình như thức ăn nhân gian cực kỳ thú vị.
Tháng sáu, nho mới chín, ve kêu như đánh trống.
Chuyện tốt sắp đến, khắp trong ngoài Phong Lăng Sơn đều bận tối mắt tối mũi, đèn lồng đỏ được treo khắp núi, từng chùm sắc đỏ rộn ràng treo trên các cây tùng bách xanh biếc. Hạc trắng của Quảng Phủ Quân cũng được chăm cho có bộ lông bóng loáng không thấm nước, bay vòng vòng trong núi suốt ngày, gửi chỉ thị của Thanh Tĩnh Quân cho các đệ tử.
Đã qua một năm kể từ ngày Từ Hành Chi xin ban hôn long trời lở đất trước mặt mọi người, trong lòng Nguyên Như Trú có bao nhiêu tiếc nuối cũng nên phai nhạt rồi. Hơn nữa, nàng là đệ tử đứng đầu của Quảng Phủ Quân, công việc cần lo liệu cũng nhiều hơn hẳn, càng không rảnh để phân tâm.
Nhất là khi kiểm kê danh sách quà, sắp xếp các công việc trong buổi lễ, Nguyên Như Trú không rảnh buồn bã cho cuộc tình chết trong êm ái của mình, mấy lần thán phục mức độ vung tay chi tiền của Thanh Tĩnh Quân.
Lúc nàng cầm một cuốn sổ ngây người, một nữ hầu nội môn đi từ ngoài cửa tới bên cạnh nàng, dâng trà lên, nhân tiện tò mò vươn cổ lên xem: “Nguyên sư tỷ, lại có thứ gì hiếm lạ nữa sao?”
Cô gái này tên là Hoàng Sơn Nguyệt, vào Phong Lăng từ nhỏ, tính cách hoạt bát, ríu ra ríu rít, mấy ngày nay, Nguyên Như Trú và nàng ta qua lại không tệ, việc này không phải bí mật quan trọng, nàng bèn mở sổ ra cho nàng ta xem.
Hoàng Sơn Nguyệt chỉ liếc mắt nhìn qua, đôi mắt hạnh trợn tròn lên ngay tức khắc: “Sau này Thanh Tĩnh Quân không cần sống nữa à?”
Nguyên Như Trú bật cười, đẩy lần lượt sáu, bảy cuốn sổ trước mặt qua: “Không chỉ cuốn này. Đống này đều được đưa tới chỉ trong một ngày hôm nay… Đều là các thứ Thanh Tĩnh Quân định thêm vào hôn lễ và danh sách quà tặng.”
Đôi mắt hạnh của Hoàng Sơn Nguyệt trợn to hơn, khó kiềm chế vẻ hâm mộ: “Quả nhiên Thanh Tĩnh Quân rất yêu quý sư huynh.”
Nói đến đây, nàng ta lại hơi bĩu môi, nói đùa: “Nếu biết trước thế này, cho dù vì những đồ sính lễ này, ban đầu ta nên thử theo đuổi sư huynh.”
Nguyên Như Trú cười không nói gì.
Nàng và Mạnh Trọng Quang lớn lên cùng nhau, nàng biết rõ rằng dù Thanh Tĩnh Quân chắp tay tặng một ngọn núi, trong mắt hắn chỉ chứa thanh niên phóng khoáng vẫy quạt kia thôi. Những món quà này cũng chẳng là gì với hắn, cuối cùng vẫn sẽ đưa cho Từ Hành Chi cất giữ.
Nói cách khác, những món quà này đều là Thanh Tĩnh Quân tặng cho đồ đệ của mình.
Mọi người đều đang bận rộn, Từ Bình Sinh là huynh trưởng đương nhiên cũng không thể nhàn rỗi. Thanh Tĩnh Quân nhận hết trách nhiệm của phụ thân rồi, cậu ta đành phải làm việc khác, dồn hết công sức sắp xếp phòng tân hôn, dùng hạt tiêu giã nát trộn với bùn, trát lại gian điện của Từ Hành Chi.
Mấy ngày trước hôn lễ, điện được sửa xong, giường cưới được chuẩn bị từ trước cũng được những người đàn ông tốt số khiêng vào trong điện. Từng lớp chăn đệm cưới mới tinh được đặt lên giường, Từ Bình Sinh nhìn mà trăm mối cảm xúc đan xen.
Cậu ta lặng lẽ đi ra khỏi điện, quay về điện của mình, lấy một đôi giày nhỏ dưới giường lên, đặt trong lòng bàn tay, ngắm nghía một lúc.
Đôi giày vải đầu hổ vốn là lúc còn bé cậu ta muốn dẫn Hành Chi đi mua, sau đó vì đủ loại biến cố mà không mua được. Sau khi làm hòa với Hành Chi, cậu ta đã mua một đôi tương tự từ lâu rồi, vốn định để sau này Hành Chi thành thân, mình có đủ lý do để tặng món quà đến muộn này, bây giờ lại thất bại rồi.
Không tặng nữa, tên nhóc thối, thích con gái không thích lại khăng khăng quấn lấy một tên đàn ông tới chết không hối cải.
Trong lúc Từ Bình Sinh tức bốc khói, một đệ tử bên ngoài truyền lời vào: “Từ sư huynh, ngoài núi có người tìm huynh, bảo là bạn cũ của huynh, có chuyện quan trọng cần bàn bạc.”
Bạn cũ? Từ trước đến nay Từ Bình Sinh ít khi kết bạn với người khác, lấy đâu ra bạn cũ?
Cậu ta hỏi: “Tên họ là gì, lai lịch ra sao?”
Đệ tử tới báo tin bảo không biết, chỉ nói là một công tử tướng mạo anh tuấn, hình như mắt có vấn đề nên dùng một miếng vải đen che lại, chống kiếm đi lên núi. Hắn nói tới tìm tam đồ đệ của Phong Lăng Sơn Thanh Tĩnh Quân – Từ Bình Sinh, mà chỉ muốn chờ ở cổng môn phái, đệ tử canh cổng không dám để người ngoài vào núi bừa bãi nên tới báo cho Từ Bình Sinh biết, mời cậu ta ra ngoài gặp.
Mang theo cơ thể đầy mùi hạt tiêu và nghi hoặc trong lòng, Từ Bình Sinh đi xuống dọc theo bậc thang ở con đường giữa núi, nhìn thấy “bạn cũ” dưới bóng cây xum xuê mát mẻ.
Người ấy quay lưng về phía cậu ta, mặc bộ đồ màu xanh ngọc, lưng đeo món đồ gì đó có hình dáng dài, dây lụa đen thắt chéo sau đầu, phần dây dư ra tung bay trong gió, tư thế đứng lười biếng thả lỏng, làm Từ Bình Sinh nhìn mà nhíu mày.
Cậu ta không nhớ mình có người bạn nào thế này.
Khi cậu ta đỉnh lên tiếng hỏi trước, gió đã đưa mùi hạt tiêu trên người cậu ta tới chỗ người kia.
Người kia xoay người lại, để lộ đôi môi mỏng đỏ tươi, còn nhếch một bên mép lên đầy phóng khoáng, vô cớ khiến Từ Bình Sinh bốc lên ngọn lửa muốn đánh nhau.
Hình như… Mình từng có cảm xúc tương tự với một người quen cũ nào đó…
Chẳng lẽ người kia là bạn cũ của mình thật sao?
Trong lúc Từ Bình Sinh trầm ngâm nghĩ ngợi, người kia chống kiếm bước từng bước lên bậc thang, đi lại hơi không vững, Từ Bình Sinh chủ động tới đón, đứng trước mặt hắn khách sáo hỏi: “Xin hỏi ngươi là…”
Một bàn tay đầy vết chai vì cầm kiếm xoa mặt cậu ta một cách ngả ngớn, vuốt từ trên xuống dưới một cái rồi mới mở miệng bình luận: “Ngươi gầy hơn so với lần trước gặp mặt nhỉ.”
Từ Bình Sinh: “…”
Nghe giọng người này, cậu ta nhớ ra đây là tên khốn nào rồi.
Cậu ta dùng gương mặt vô cảm, rút kiếm ra khỏi vỏ, vững vàng chính xác chĩa thẳng vào bụng người kia.
Một lúc lâu sau.
Hai người sóng vai ngồi trên bậc thang giữa núi, Từ Bình Sinh nghệt mặt ra, ngồi cách hắn thật xa, Tạp Tứ tháo dây bịt mắt xuống, xoa chỗ bị đau tới mức nhe răng trợn mắt, ai oán: “Huynh trưởng à, lâu rồi không gặp, sao vẫn hung dữ thế?”
Từ Bình Sinh lườm một phát, dùng lực mạnh quá, hơi đau đầu.
Mối thù cài hoa lần trước vẫn đang rành rành trước mắt, cậu ta cài một bông hoa ngô đồng đi lại khắp nơi mà chẳng hay biết gì, mãi đến tận khi nhóm Hành Chi trừ yêu về, được Nguyên Như Trú đi ngang qua nhắc nhở, cậu ta mới biết cảnh xuân sau đầu mình. Nguyên Như Trú còn che miệng khẽ cười nói “Tam sư huynh cài hoa rất đẹp”, làm cho cậu ta xấu hổ tới mức chỉ muốn chôn bản thân xuống đất.
Thấy Tạp Tứ bị đau, tâm trạng Từ Bình Sinh thoải mái hơn một chút: “Giả làm người mù, vui không?”
Mảnh vải đen vừa bịt mắt Tạp Tứ bị hắn quấn bừa lên cổ tay. Tạp Tứ nghe vậy thì hơi uất ức, oán giận: “Màu mắt của ta trời sinh đã thế, nếu để đệ tử Phong Lăng nhìn thấy, nhận ra ta là người ma đạo, sao họ thông báo giúp ta được? Đành phải che lại thôi.”
Từ Bình Sinh kiềm chế lửa giận: “Gọi ta làm gì? Ta và ngươi thân quen lắm à?”
“Ta tới tặng quà. Hành Chi là tân lang, chắc chắn bây giờ bận không đi ra được. Nghĩ tới nghĩ lui, trong số những người ta quen ở Phong Lăng thì chỉ có huynh trưởng thôi.” Tạp Tứ bớt đau cái là biến thành dáng vẻ đê tiện không biết nhớ đòn, cười hì hì: “Huynh trưởng, giúp ta đi.”
Người này đến tặng quà, mang theo ý tốt tới, Từ Bình Sinh không tiện làm ầm lên đuổi hắn đi vào lúc này, đành phải trưng khuôn mặt lạnh lùng hỏi: “Tặng gì?”
Tạp Tứ bỏ túi vải dáng dài sau lưng xuống, lật từng lớp vải ra, lộ ra một cái hộp dài làm bằng gỗ hoa lê, nét mặt vui mừng khi dâng tặng vật quý giá: “Mời huynh trưởng xem.”
Từ Bình Sinh mở nắp hộp ra.
Có thể thấy Tạp Tứ rất tự hào vì món quà cười của mình, thích thú giới thiệu: “Đây là thanh kiếm ta làm từ đá kiếm thượng cổ vớt ở Đường Khê lên, từ lúc biết tin Hành Chi sắp thành hôn, ta bèn rèn thanh kiếm này, ba tháng nay, lửa ở lò rèn cháy suốt ngày đêm, hôm qua mới xong…”
Trong lúc hắn lải nhải, Từ Bình Sinh chậm rãi ngẩng đầu lên khỏi hộp, vẻ mặt hơi nhăn nhó: “Đệ đệ ta thành hôn, ngươi tặng quà số lẻ cho hắn? Lại còn là hung khí đã mài cho sắc?”
Tạp Tứ ơ một tiếng, hơi khó hiểu: “Đây là kiếm tốt mà.”
Từ Bình Sinh: “…”
Cậu ta nhìn dáng vẻ vô tri vô cảm chết tiệt của hắn, vốn đã có xúc động muốn đánh hắn rồi, nghe hắn nói một câu hùng hồn như thế thì không kiềm chế nổi lửa giận ngập tràn trong lòng nữa, đóng nắp hộp lại ném trả: “Không may mắn, biết không hả?”
Tạp Tứ ôm hộp kiếm vào lòng, đôi mắt hẹp dài cuốn hút chớp chớp với vẻ vô tội: “Nhưng ta rất thích tảng đá kiếm này… Vớt lên mười một năm rồi, ta còn không nỡ dùng cho bản thân…”
Vẻ cô đơn và bối rối trên mặt hắn khiến trái tim Từ Bình Sinh dần mềm nhũn ra.
Người này không cố ý, chỉ không hiểu phong tục trên đời, tặng bảo vật mình thật lòng yêu thích, mặc dù tấm lòng này sai nhưng rất chân thành.
May mà trước giờ Tạp Tứ không phải người sầu não vì chuyện nhỏ nhặt, hắn xua hết hụt hẫng thoáng qua đi: “Bây giờ ta xuống núi mua quà khác, huynh trưởng ở đây chờ ta nhé!”
“Chờ đã!” Từ Bình Sinh đứng dậy: “Ta đi cùng ngươi.” Kẻo hắn lại mua đồ gì đó kỳ lạ không thể đem tặng người khác.
Tạp Tứ vòng tay ôm gáy cậu ta, cười sang sảng: “Ta biết ngay huynh trưởng là người tốt bụng lương thiện mà!”
Da mặt Từ Bình Sinh giật giật: “Tay.”
Tạp Tứ biết lắng nghe và tiếp thu, bỏ tay xuống, trơ mặt ra thụt tay vào trong tay áo cười nói: “Huynh trưởng này…”
“Đừng gọi ta là huynh trưởng. Ta là huynh trưởng của một mình Hành Chi, không có quan hệ gì với ngươi hết.”
“Thế ta gọi ngươi là gì?”
“Thích gọi thế nào thì gọi.”
Tạp Tứ ngẫm nghĩ kỹ càng: “Bình Sinh?”
Từ Bình Sinh nghẹn lời, nguýt hắn một cái như gặp phải ma, nhưng đúng lúc bắt gặp nụ cười xán lạn không biết xấu hổ của ai đó: “Bình Sinh, Bình Sinh.”
Từ Bình Sinh quyết định không chấp nhặt với tên ngốc, nhịn.
Đi được một lúc, Tạp Tứ lại không đàng hoàng.
“Binh Sinh này, dù sao ta cũng rèn ra thanh kiếm này rồi, mang về tự dùng thì không hay lắm. Ta thấy thanh kiếm làm từ đá Mạc Tà của ngươi rất tốt, hay là chúng ta đổi cho nhau đi.”
“Bớt mơ tưởng.”
“Thật sự không đổi sao?”
“Im miệng.”
Đốm sáng nho nhỏ được lọc bớt bởi phần phía trên con đường rừng rơi xuống hai người, một đàn chim trắng bay ra khỏi rừng thông, bóng phủ xuống khẽ đong đưa theo lá, như có nước chảy qua vai hai người.
Sau khi đi từ trên núi xuống dưới núi, kiếm Mạc Tà bên hông Từ Bình Sinh đã đổi thành kiếm Đường Khê.
Nguyên nhân là bị cái miệng liến thoắng không ngừng làm phiền không thôi, cùng với không chịu nổi ánh mắt tạo nghiệp chất chứa cầu khẩn của Tạp La.
Tạp Tứ lấy được kiếm Mạc Tà, phấn khích như đứa trẻ có được món đồ chơi yêu dấu, mang theo tấm lòng ngây thơ của trẻ sơ sinh nhảy nhót tưng bừng, lật kiếm hết lần này tới lần khác nhìn ngắm mãi không chịu thôi, còn chẳng thèm nhìn đường đi.
Từ Bình Sinh liếc mắt nghĩ, ngã chết thì ngoan ngay.
Đi được mấy bước, Tạp Tứ bước hụt thật, Từ Bình Sinh luôn chăm chú để ý bước đi của hắn thấy thế thì trái tim thắt lại, không kịp suy nghĩ gì nhiều đã vươn tay túm lấy cổ áo hắn, vì thế hắn mới không bị ngã lăn xuống đường núi gồ ghề.
Lúc Tạp Tứ ngã ra trước, chóp mũi sượt qua mặt bên của thân kiếm, không ngờ hắn ngửi thấy hương thơm lành lạnh của lá thông.
Mắt hắn bỗng sáng lên, vừa mới đứng vững đã vội vàng hỏi Từ Bình Sinh: “Bình Sinh, ngươi dùng cái gì để bảo dưỡng kiếm thế? Mùi này thơm thật đó.”
Từ Bình Sinh: “…”
Từ Bình Sinh hối hận vì cứu hắn, thà cho hắn ngã thật mạnh cho hết miệng để nói cho rồi.
Nhưng nếu người ma đạo đều không có ý gây rối như Tạp Tứ thì khá tốt.
Theo Từ Bình Sinh biết, trong trận chiến tranh giành vị trí tôn chủ mới của ma đạo, Lục Vân Hạc – người làm đồ đệ của Tạp La rồi lại làm đồ đệ của Nhập Tái đã giành được vị trí tôn chủ ma đạo, nhưng mà nội chiến dai dẳng đã khiến thế lực vốn có trong tay gã suy yết hơn nửa, hai tên công tử bị đuổi khỏi tổng đàn ma đạo, có người nói hai kẻ đó đã xóa bỏ hiềm khích lúc trước, hợp tác với nhau, lập kế phản công, chọc cho Lục Vân Hạc sứt đầu mẻ trán.
Nhờ hôn lễ của Từ Hành Chi, cuối cùng Lục Vân Hạc cũng tìm được cơ hội qua lại với bốn môn phái. Nửa tháng trước gã đã tự mình đến tận nơi, tặng quà to, hết mực cung kính, cẩn thận từng li từng tí, chỉ mong bốn môn phái không nhân lúc bọn họ suy yếu mà ra tay tiêu diệt ma đạo.
Thanh Tĩnh Quân tự mình xem quà một lượt, xác nhận không có gì khác thường mới cất vào kho, cũng hứa với gã, hiệp ước hòa bình của bốn môn phái và ma đạo vẫn tiếp tục duy trì, nhưng nếu ma đạo có ý không đúng với khuôn phép, bốn môn phái có thể tiêu diệt bất cứ lúc nào, đừng bảo là không báo trước.
Mồ hôi Lục Vân Hạc tuôn như suối, liên tục đáp được, khom lưng uốn gối vì thái bình ngắn ngủi của ma đạo, nhưng hai tên công tử luôn rình rập vẫn là mối nguy hiểm tiềm ẩn to lớn với gã.
E là trong một khoảng thời gian rất dài gã không rảnh để can thiệp vào việc của bốn môn phái.
Trong thế giới thái bình do một tay Nhạc Vô Trần tạo dựng lên, hôn lễ của Từ Hành Chi chính thức bắt đầu.
Từ Hành Chi và Mạnh Trọng Quang đều là người của Phong Lăng Sơn, còn ở chung một điện từ lâu, nếu đón rước ngay tại đó rồi ra tổ chức hôn lễ thì hơi qua loa.
Sau khi bàn bạc, Mạnh Trọng Quang đồng ý dọn xuống trấn nhỏ dưới Phong Lăng Sơn, chờ tới hôm thành hôn mới được đón lên núi, thân phận giống như bên tân nương.
Nếu là đàn ông bình thường, bị yêu cầu “xuất giá” như con gái thì trong lòng sẽ hơi để ý nhưng Mạnh Trọng Quang lại chẳng thèm quan tâm tới việc nhỏ nhặt này.
Người hắn muốn chung sống một đời là Từ Hành Chi, chỉ cần sư huynh vui, người khác bàn tán thế nào đều là gió thoảng qua tai, chẳng đáng dừng lại trong lòng hắn dù chỉ thoáng chốc.
Ngày mồng tám tháng sáu, hợp cưới gả.
Từ sáng sớm, Chu Bắc Nam và Khúc Trì đảm nhận nhiệm vụ tiếp khách đã đứng ở cổng để đón khách rồi, Tạp La làm người nhận quà mừng, đọc tên quà cưới do bốn môn phái gửi đến rồi cảm ơn từng người.
Danh sách quà được đưa tới, từ sáng tới hoàng hôn, cái miệng của Tạp La chưa ngừng lại lúc nào.
Sau khi khách khứa ngồi ổn định vào sảnh, Tạp La khô hết cả miệng cầm danh sách quà tặng của Thanh Tĩnh Quân trong một cái hộp ngọc lên, nhìn thấy chữ viết đẹp đẽ quen thuộc, nội tâm nóng nảy mới hơi bình tĩnh lại.
Nhưng khi hắn ta giũ hết danh sách trong hộp ra, mắt hắn ta bỗng tối sầm, da đầu nổ tung.
Người ngồi ở đó đều thốt lên trong hoảng hốt.
Một quyển danh sách quà tặng dày cộm, tung xuống từ trên đài cao, rơi thẳng xuống đất, trên đó đất lít nha lít nhít toàn là chữ của Thanh Tĩnh Quân.
Trong ánh mắt ghen tị của đệ tử các nhà, Tạp La nuốt nước miếng thật mạnh, bắt đầu đọc từ chỗ cao nhất.
Một quyển danh sách quà, Tạp La đọc mất nửa canh giờ.
Ban đầu mỗi khi nghe thấy tên một món bảo vật, mọi người đều ngạc nhiên bàn tán sôi nổi, nghe đến đoạn sau thì ai nấy đều có vẻ tê tái, trong lòng chỉ còn một suy nghĩ duy nhất:
Thanh Tĩnh Quân quả là yêu thương Từ sư huynh thật lòng.
Đọc xong danh sách quà, cổ họng cao quý và hoa lệ trời cho của Tạp La đã khàn quá nửa. Hắn ta gắng gượng hắng giọng rồi mới tuyên bố buổi lễ chính thức bắt đầu.
Chuông trống vang lên giai điệu mới, ba bộ chuông nhạc hòa âm cùng, tấu lên âm cổ may mắn làm cho người ta thích ý thoải mái. Từ Hành Chi và Mạnh Trọng Quang đều mặc trang phục tân lang đỏ họa tiết vàng, bước qua chậu than ngoài cửa, cùng nhau đi vào.
Hai người đều tươi cười, một người khôi ngô không ai sánh bằng, một người đẹp như mỹ nữ đất Sở, một người phóng khoáng thoải mái, một người xinh đẹp có một không hai.
Nhìn thấy cảnh ấy, ngay cả Ôn Tuyết Trần vốn kín đáo bày tỏ sự không hài lòng về việc hai người thành đôi nhiều lần cũng phải dâng trào cảm xúc, giống như những người khác, trong đầu hắn đều hiện ra bốn chữ: Một đôi trời sinh.
Từ lúc vào cổng môn phái, Từ Hành Chi đã cảm thấy dưới chân hơi khác thường, luôn có hương thơm thoang thoảng bên mũi, cậu cụp mắt xuống nhìn, vô cùng ngạc nhiên.
Thoáng nhìn qua thì thấy dưới chân hai người chỉ là thảm nền màu đỏ nhưng nhìn kỹ lại thì khắp nơi được trải một lớp nhụy hoa nghệ tây dày cộm, dùng bảo vật thiên nhiên này để trải nền đất, giá trị tính ra cũng phải tầm trăm vạn lượng, đúng kiểu mỗi một bước chân đều là vàng.
Trên đoạn đường hai người đi qua, nụ hoa được trồng hai bên đường, dùng linh lực nuôi dưỡng nở rộ, từng bước sinh sắc, trăm hoa đưa bước, đẹp đến mức khiến người ta nín thở, vô số nữ đệ tử chỉ nhìn cảnh này thôi cũng rưng rưng nước mắt.
Vành mắt Từ Hành Chi hơi nóng, nhìn Nhạc Vô Trần làm người chứng hôn đứng trên đài cao phía xa.
Nhạc Vô Trần nhếch môi cười, dáng vẻ dịu dàng hiền hòa như phụ thân nhìn thấy con mình thành hôn.
Tới trước mặt Nhạc Vô Trần, hai người cầm tay nhau dừng lại.
Từ Hành Chi nhỏ giọng gọi: “Sư phụ.”
“Tốt.” Giọng Nhạc Vô Trần hơi run lên: “Rất tốt.”
Thế này rất tốt. Con của ta, đồ nhi của ta, Hành Chi của ta, hạnh phúc an khang, tuổi thọ ngang với đất trời, nắm tay người yêu, thắt dây tơ hồng, bên nhau tới khi đầu bạc.
“Nhất bái thiên địa, mong đôi lứa hòa hợp, đầm ấm hạnh phúc.”
“Nhị bái quân trưởng, mong đôi bên bình đẳng, trân trọng, thấu hiểu lẫn nhau.”
“Hai bên giao bái, mong người về nhà chồng, gia đình êm ấm.”
Rất nhiều lời chúc vang lên, lời nào cũng đầy chân thành.
Từ Hành Chi vừa quay đầu lại, bạn bè, người thân của cậu đều ở trong tầm mắt cậu. Từ Bình Sinh, Chu Bắc Nam, Khúc Trì, Chu Huyền, Lục Ngự Cửu, tất cả mọi người đang nhìn cậu và mỉm cười từ tận đáy lòng, ngay cả Ôn Tuyết Trần và Cửu Chi Đăng, hai kẻ có khóe môi mím thẳng băng vạn năm cũng thoáng hiện lên vui mừng.
Tay phải Từ Hành Chi hơi siết lại, nắm chặt bàn tay bên cạnh, Mạnh Trọng Quang lặng lẽ đáp lại cậu, cũng siết chặt tay hơn.
Đàn ông thành hôn, không tiện nói mấy lời may mắn “sớm sinh quý tử” nên lễ nghi rườm rà cũng theo đó mà lược bỏ không ít.
Nghi lễ kết thúc, mọi người bắt đầu ăn uống vui chơi không giới hạn, tới đêm, pháo hoa khắp trời biến Phong Lăng bị màn đêm nhấn chìm thành Bất Dạ Thiên đèn đuốc rực rỡ, ánh vàng lung linh.
Từ Hành Chi có tửu lượng cao, người lấy Chu Bắc Nam dẫn đầu ắt sẽ không bỏ qua cơ hội chuốc rượu cậu, nhưng không đến mức khiến cậu say không thể động phòng. Sau khi quậy cho Từ Hành Chi say tầm sáu, bảy mươi phần trăm, một nhóm người vây quanh cậu đi về cung điện đã sửa sang, quậy phá ở sân một trận nữa mới lần lượt tản đi.
Dù sao mọi người chưa quậy phòng tân hôn của nam với nam bao giờ, sợ không biết chừng mực khiến khách và chủ đều lúng túng, vì thế dưới sự dẫn dắt của Khúc Trì và Ôn Tuyết Trần, ngoan ngoãn rút quân.
Men say đã ngấm, Từ Hành Chi nới lỏng cổ áo ra một chút, đẩy cửa đi vào, nhìn thấy Mạnh Trọng Quang được đưa về phòng theo lễ tiết dành cho tân nương đã thay sang bộ đồ khác.
Mạnh Trọng Quang đội phượng quan, khăn quàng vai, miệng bôi son đỏ, nội y đỏ phác họa nên phần eo ấm áp một tay nắm không hết, mái tóc dài như mây như mực rũ rượi trên gối đệm.
Hắn nằm trên giường, nở nụ cười vô cùng quyến rũ và nhẹ nhàng: “Ta tự mua thêm, sư huynh có thích không?”
Cổ họng Từ Hành Chi phát ra một tiếng cực kỳ nặng nề.
Trọng Quang…
Người ở bên cạnh cậu từ nhỏ, không biết từ bao giờ, cậu dần quen với sự tồn tại của người này, cũng bị hắn dần dần hòa vào sinh mệnh, cho đến khi giật mình nhận ra, Mạnh Trọng Quang đã biến thành một phần không thể thiếu của cậu.
Không có một gợn sóng, lại thuận lý thành chương, không cần sóng gió thử thách gì cả, không cần sống chết có nhau gì hết, ưng ý, rung động, nhận ra không thể rời xa, cứ thế mà ở bên nhau.
Người đầu tiên cậu yêu trong đời cũng là người cậu nắm tay suốt một đời, tốt đẹp biết bao.
Người tiêu sái phóng khoáng, không chịu ràng buộc như Từ Hành Chi có một nhược điểm thống nhất, bọn họ yêu thương muôn dân, giàu lòng trắc ẩn, vì thế không quá hiểu rõ thế nào là yêu thích thật sự.
Nhưng cậu nhận ra, mình nhìn Mạnh Trọng Quang thế này, trái tim đang đập rộn, máu đang bùng cháy, không khống chế được muốn hôn hắn, ôm hắn.
Có lẽ đólà yêu thích thật sự.
Từ Hành Chi đi tới trước giường, vươn tay ra chạm lên cổ Mạnh Trọng Quang, chọc vào chỗ làm hắn thoải mái nhất, chậm rãi xoa bóp.
Quả nhiên, Mạnh Trọng Quang ngửa cổ lên như con mèo nhỏ, thoải mái chìa nơi yếu ớt nhất đối với bất cứ người nào ra cho Từ Hành Chi thấy, yết hầu cuộn lăn, để cậu thỏa thích xoa nắn vuốt ve nắn.
Từ Hành Chi hôn lên cần cổ trắng nõn nhô lên của hắn, giọng hơi run rẩy, mang theo căng thắng hiếm có: “Trọng Quang, ta sẽ cố gắng làm thật nhẹ, ngươi đừng sợ.”
Mạnh Trọng Quang giơ tay lên, ấn vào nốt ruồi lệ ở đuôi mắt Từ Hành Chi, cười nói đầy ẩn ý: “Sư huynh, ta không sợ huynh, huynh cũng không cần sợ ta.”
Không chờ Từ Hành Chi hiểu rõ lời hắn nói, Mạnh Trọng Quang đột nhiên túm dây thắt lưng cậu, hai người hôn nhau, như hai ngọn lửa xâm lược, giao hòa đốt cháy cùng một nơi.
Nhưng một khắc sau, một tiếng hét hoảng loạn vang ra từ trong điện: “Tên họ Mạnh kia! Tên họ Mạnh kia… Ưm, ngươi muốn làm gì?! Ta…”
Lời kế tiếp bị linh trận chặn lại, không thể truyền ra ngoài được nữa.
Đêm đó, Nhạc Vô Trần nếm được cảm giác say mèm sau mười mấy năm.
Y uống đến mức không đứng thẳng nổi, kéo Phù Diêu Quân luôn miệng hô “Hành Chi đừng đi”, “Sư phụ sai rồi”, khiến Phù Diêu Quân dở khóc dở cười, ôm hờ lấy hông y, gọi Tạp La ở bên cạnh: “La Thập Tam, mau tới chăm sóc sư phụ ngươi đi.”
Đương nhiên Tạp La mong còn chẳng kịp, đỡ Nhạc Vô Trần hoa mắt vào lòng, nhỏ giọng dụ dỗ: “Sư phụ, về điện Thanh Trúc nhé. Người say rồi.”
Đôi mắt cụp xuống của Nhạc Vô Trần nổi lên một lớp nước mỏng khiến người ta thương xót, nói nhỏ: “Ta không say. Ta không bao giờ uống say nữa.”
Nhịp tim của Tạp La suýt thì bị người này chọc cho cất lên điệu hát dân gian, giọng điệu dịu dàng hơn nữa: “Được, sư phụ không say. Trời tối rồi, đồ nhi đưa sư phụ về nghỉ nhé, được không?”
Nhạc Vô Trần ngoan ngoãn gật đầu: “Ừ.” Ngay sau đó gục vào ngực thanh niên, không động đậy nữa.
Cuối cùng cũng chịu ngoan rồi.
Tạp La đỡ Nhạc Vô Trần dậy, tới khi đi đến nơi vắng người mới bế ngang người nghiêng trái nghiêng phải ấy lên, đi về điện Thanh Trúc, đặt y lên giường êm, lấy nước nóng, nhúng khăn rửa sạch tay chân cho y, pha một bình trà thật đặc để y giải rượu.
Trong lúc chờ trà nguội, Tạp La ngồi xuống cạnh giường.
Nhạc Vô Trần ngủ không ngon lắm, bị cơn say giày vò trằn trọc không ngừng, hơi nhăn mày lại, lẩm bẩm nói mớ, trông biểu cảm hơi khó chịu, hình như đang gặp ác mộng.
Thấy Nhạc Vô Trần như thế, Tạp La dần nổi lên suy nghĩ khác.
Lúc này Nhạc Vô Trần đã say bí tỉ, không chút đề phòng, chi bằng mình nhân cơ hội này tìm vào thức hải của y, xem rốt cuộc trong lòng y nghĩ gì về mình?
Thử hỏi, có ai không muốn biết rốt cuộc mình mang dáng vẻ gì trong lòng người mình yêu?
Giây phút này, ngay cả chính bản thân Tạp La cũng không biết mình đang mong chờ cỡ nào, luồn một tia linh thức vào trong thức hải của Nhạc Vô Trần, tim đập thình thịch như đang báo nguy, ầm ĩ đến mức chính hắn ta cũng thấy sợ hãi.
Khoảnh khắc chui vào, xung quanh đều yên tĩnh, trái tim của Tạp La như được bôi mật, hơi thắt lại trong sự ngọt ngào.
Nhưng chỉ trong tích tắc, linh lực phòng ngự được thiết lập trong cơ thể Nhạc Vô Trần nổ tung ầm ầm!
Linh thức bật lại, Tạp La không kịp chuẩn bị gì cả đã bị cái búa gõ chuông được cọ rửa trong mưa gió suốt trăm nghìn năm đập mạnh một phát đầu, chật vật lăn ra giường trong cơn đau nhức.
Chỉ thoáng chạm một cái, trong đầu Tạp La đã lóe lên vô số hình ảnh vụn vặt, khóe mắt không kiềm chế được mà tuôn trào lệ nóng.
Đau đớn này không bắt nguồn từ bản thân Tạp La mà đến từ ký ức của Nhạc Vô Trần.
Vô số mảnh vỡ không chịu khống chế chui vào mắt hắn ta, không thua gì chà mảnh thủy tinh vỡ vào mắt.
Hắn ta nhìn thấy Nhạc Vô Trần ở điện trong Thanh Trúc, ngồi trước gương uống rượu. Hình như trang trí trong điện Thanh Trúc không giống với bây giờ, người trong gương cũng có thần thái, cử chỉ khác xa Nhạc Vô Trần ngoài đời, đôi mắt mang màu xanh xám tà ma, nói với không khí: “Ngươi giấu tàn hồn của ta nhiều năm, một năm trước dùng vò rượu, đưa ta đến Phong Lăng Sơn, rồi lại tặng ta thể xác tốt thế này…”
Ban đầu Tạp La thấy rất xa lạ, chỉ thấy đôi mắt này hơi quen, giọng điệu nói chuyện cũng giống như từng quen biết, tới khi người kia nói thêm hai câu nữa, Tạp La bỗng ngơ ngác.
Rõ ràng đây là mắt và giọng mình mà!
Đây là giấc mơ của Nhạc Vô Trần sao?
Nhưng lúc xem thức hải, giấc mơ không tính.
Vì thế những gì hắn ta nghe được đều là những gì Nhạc Vô Trần đã tự mình trải qua.
Cảnh tượng tan vỡ biến đổi, chuyển tới rừng trúc sau núi. Nhạc Vô Trần say mèm ngã ra đất, không ngừng quằn quại lẩm bẩm trong tiếng lá trúc rì rào, như có một người tàng hình đấu đá lung tung, cợt nhả coi khinh ở trong cơ thể y. Trăng sáng trên trời, trúc xanh xào xạc, Nhạc Vô Trần nằm ngửa trên đất, đầu ngón tay nắm một nắm bùn ướt nhẹp.
Trên lôi đài, quái vật trốn trong cơ thể Nhạc Vô Trần hung hãn đoạt xác, chiêu thức nào cũng muốn lấy mạng Từ Hành Chi, sau đó lại thôi thúc chuông bạc làm bậy, cắt thịt đập xương, phế bỏ tay phải của Từ Hành Chi.
Lúc đó, Nhạc Vô Trần bị nhốt trong chính cơ thể của mình, gọi từng tiếng Hành Chi tan nát cõi lòng, tới tận khi đau đến mất giọng, không nói được gì nữa.
Sau đó, người mà bây giờ Tạp La chỉ muốn nâng trên đầu quả tim để ủ ấm đã liều mạng, dùng thân thể nửa tàn phế, lặng lẽ chui ra khỏi thức hải, cố chịu cơn đau gãy xương, dịu dàng dụ dỗ Từ Hành Chi, nói rằng y đã rút linh thức ra khỏi cơ thể này rồi, xin cậu giết mình và kẻ chiếm tổ chim khách.
Nhạc Vô Trần chết, cuộc chiến chinh phạt và hỗn loạn dài đằng đẵng bắt đầu.
Cờ xí cùng thời lần lượt đổ xuống. Thanh Lương Cốc diệt vong, Ứng Thiên Xuyên đầu hàng, Phong Lăng và Đan Dương đều tản đi.
Có một đôi mắt đau đớn nhìn chằm chằm tất cả mọi thứ. Y thấy người thân qua đời, bạn thân thiết qua đời; thấy mỹ nhân xương trắng, thiếu niên lúc hoàng hôn; thấy tấm lòng trung nghĩa đảo ngược, nhiệt huyết lạnh dần. Nhưng y chỉ có thể nhìn, từ kẻ lánh đời, tiên rượu vô lo vô nghĩ biến thành u hồn mang đầy tâm sự, cô đơn buồn tủi.
Mãi đến tận khi cơ thể y tỉnh lại trong thiền phòng thoang thoảng hương rượu hoa quế, sống lại.
Tạp La trợn tròn mắt.
Mỹ nhân dùng gương soi mình, đập vào mắt lại là xương bùn thịt thối, bảo hắn ta phải chấp nhận thế nào đây?
Hắn ta xem đủ rồi! Không muốn xem nữa!
Nhưng hình ảnh lũ lượt kéo đến, đan chồng lên nhau, đâu chịu buông tha cho hắn ta? Đầu hắn ta đau như muốn nứt ra, ngã về phía sau, trong lúc vội vàng hoảng loạn làm đổ một lư hương Bác Sơn.
Tấm chắn phòng ngự trong cơ thể bị kích hoạt, nguyên thần chấn động, dù Nhạc Vô Trần ngủ say hơn nữa cũng phải thức, y bò dậy khỏi giường, xoa ấn huyệt thái dương thật mạnh, tấm lưng gầy yếu run rẩy từng cơn, đây là kích thích đau đớn khi lập tấm chắn.
Tạp La kiềm chế tới mức mặt tái mét mới gắng gượng áp chế xúc động muốn ôm Nhạc Vô Trần vỗ về xuống.
Hắn ta khàn giọng gọi: “Nhạc Vô Trần?”
Run rẩy ở lưng Nhạc Vô Trần dần nhỏ lại, tấm lưng ướt đẫm chậm rãi ưỡn thẳng lên nhưng vẫn quay lưng về phía hắn ta.
Tạp La gọi to hơn: “Nhạc Vô Trần!”
Chỉ có như thế hắn ta mới khống chế được tiếng nghẹn ngào ở cổ họng.
Nhạc Vô Trần im lặng một lúc ngắn ngủi rồi thở ra một hơi thật dài: “Ngươi thấy rồi à?”
Chỉ bốn chữ ấy đã phá tan tất cả hi vọng mà Tạp La đang liều mạng tìm kiếm lời giải thích.
Trong cơn tức giận và bi quan tột độ, Tạp La muốn mắng chửi, trút hết toàn bộ những lời tục tĩu mà mình biết lên đầu Nhạc Vô Trần nhưng những lời ghê tởm định tuôn ra khỏi cổ họng đều bị hàm răng của hắn ta chặn kín lại trong lồng ngực.
Hắn ta sợ hãi nhận ra rằng ngay cả mắng Nhạc Vô Trần một câu, hắn ta cũng không làm được.
Nguyên nhân chẳng có gì cả, chỉ không nỡ thôi.
Sau khi nghiến răng mấy lần, cuối cùng Tạp La cất lên mấy lời than trách như rên rỉ: “Nhạc Vô Trần, tại sao ngươi lại trêu đùa ta như vậy!”
Nhạc Vô Trần quay sang nhìn hắn ta, mấy sợi tóc rối trên trán bị mồ hôi thấm ướt phát sáng.
Đắm chìm trong ánh mắt ấy, Tạp La bi phẫn nói: “Mười mấy năm qua, ngươi giữ ta ở trong núi, rốt cuộc để làm gì? Để thay đổi vận mệnh cho đồ đệ ngươi sao? Với ngươi, ta chỉ là một can chi trên tinh bàn tử vi, một quân cờ trên bàn cờ thôi ư?”
Nhạc Vô Trần dùng im lặng đâm một nhát vào chính giữa trái tim hắn ta.
“Nói đi chứ!” Hai mắt Tạp La đỏ ngầu: “Nhạc Vô Trần, ngươi nói đi!”
Nhạc Vô Trần nhìn thẳng vào mắt hắn ta, nhẹ nhàng nói: “Chứ không thì sao?”
Tạp La sững sờ tại chỗ, trong đầu kêu vang ầm ầm.
Hắn ta nhếch khóe miệng với đôi mắt đỏ chót, nở nụ cười khô khốc: “Nhạc Vô Trần, sao trước kia ta lại không phát hiện ra ngươi ác như vậy nhỉ.”
Giọng điệu nhẹ nhàng nhưng lại toát ra nỗi tuyệt vọng không thể nói rõ ngập tràn trong lồng ngực.
“Sao ngươi có thể đối xử với ta như thế?” Hắn ta bò dậy khỏi đất, tập tễnh đi tới bên cạnh giường Nhạc Vô Trần, đôi mắt đỏ au nhìn thẳng vào Nhạc Vô Trần: “Ta chưa làm gì cả, tại sao ta lại đổ hết những việc kẻ đó đã làm lên đầu ta?”
Hắn ta đã không muốn giết Nhạc Vô Trần từ lâu rồi, hắn ta đang cố gắng hết sức biến thành người mà Nhạc Vô Trần mong muốn, dù vẫn chưa thành công nhưng hắn ta đã cực kỳ dụng tâm rồi.
Như thế này là bất công, tại sao hắn ta lại phải gánh chịu tội nghiệt mà Tạp La kia gây ra chứ?
Tạp La nửa quỳ trên giường, tư thế hèn mọn này khiến trái tim hắn ta đau đớn không thôi.
Trong lúc vô tình, Nhạc Vô Trần dùng tình cảm làm mồi nhử, nuôi nhốt hắn ta thành một con cừu, y không thể để hắn ta rơi vào lưới tình không thể thoát thân rồi bứt bỏ hắn ta được!
Nhạc Vô Trần im lặng không nói, Tạp La càng hoảng loạn, tóc tai rối bù xù, hai mắt rưng rưng, cái miệng đã không chịu khống chế, lúc thì nổi cáu, lúc thì van nài: “Nhạc Vô Trần, không phải ngươi là người tu đạo sao? Cứu giúp chúng sinh, lòng nhân từ của ngươi đâu rồi? Ngươi lừa ta bao nhiêu năm, phế bỏ công lực của ta, khiến ta không thể rời bỏ ngươi, sao ngươi lại có thể làm ra hành vi ấy chứ?”
Nói mãi, nói mãi, hắn ta tự khiến bản thân khó chịu, thứ trong lồng ngực lại quặn thắt đau đớn, đau đến mức mắt hắn ta nổi đầy tơ máu, giọng điệu cũng theo đó mà dịu xuống: “Sư phụ, người xem, ta thay đổi rồi. Ta không giết người, ta không hại người khác, ta là La Thập Tam, không có huyết thống ma đạo, không có nơi để về, khuôn mặt không giống trước kia, trái tim cũng đã khác. Người nhìn ta đi…”
Khi Tạp La hận không thể khoét trái tim ra cho Nhạc Vô Trần xem, Nhạc Vô Trần lên tiếng.
“Thập Tam.” Lúc y gọi Thập Tam vẫn mang theo giọng mũi khiến lòng người mềm yếu: “Mười mấy năm qua, ngươi không khiến ta thất vọng. Ngươi là nhị đồ đệ mà một tay ta nuôi dạy, cũng không phụ cái danh đệ tử của Phong Lăng. Chớ nên tự ti.”
Khi Tạp La sắp nở nụ cười, Nhạc Vô Trần chậm rãi bổ sung nửa đoạn sau: “Nhưng ta với ngươi, tuyệt đối không thể.”
“Vì sao?”
Chỉ trong nháy mắt, trong đầu Tạp La tuôn ra vô số lời giải thích và lý do.
Hắn ta không phải người từng tổn thương, sỉ nhục Nhạc Vô Trần. Coi như Nhạc Vô Trần tài giỏi, có thể biến bản thân y thành minh châu ngọc thạch trên đầu trái tim hắn ta, dù bây giờ Tạp La giận dữ, hắn ta cũng không nỡ đánh y, mắng y hay cấu véo y.
Nhưng mà, Nhạc Vô Trần chỉ dùng bảy chữ đã đập tan hết tất cả lời giải thích và hi vọng của hắn ta: “Ngươi thay đổi nhưng ta thì không.”
Chỉ vì nguyên nhân đơn giản ấy.
Tạp La không phải Tạp La kia nhưng Nhạc Vô Trần vẫn là Nhạc Vô Trần đó, y nhớ rõ ràng nguồn gốc của tất cả tai họa, đồng thời không thể xóa bỏ nguồn gốc ấy ra khỏi trái tim mình.
Mười mấy năm qua, không có bất cứ giây phút nào Nhạc Vô Trần thật sự thuộc về Tạp La.
Giống như lời Nhạc Vô Trần từng nói rất nhiều lần, Thập Tam, ta và ngươi tuyệt đối không thể.
Tạp La không biết mình đi ra khỏi điện Thanh Trúc thế nào.
Ánh trăng như muối, hòa tan làm mờ cảnh vật xung quanh nhưng hình ảnh mà hắn ta nhìn thấy trong đầu Nhạc Vô Trần vẫn hiện rõ trước mắt.
Mỗi một hình ảnh đều là lưỡi đao chia cắt hắn ta và Nhạc Vô Trần.
Nó khoét từng nhát, từng nhát một, khiến Tạp La đau không thở nổi.
Không ai dạy hắn ta phải vượt qua nỗi đau đớn này thế nào, hắn ta chỉ có thể ngơ ngác bước vào gian điện mới trống vắng không có hơi người, cuộn tròn bản thân đang chìm trong bối rối tột độ lại.
Lời hắn ta từng hứa hẹn hùng hồn vẫn còn văng vẳng bên tai: “… Có là rãnh biển ta cũng sẽ xông vào, dù là lạch trời ta cũng sẽ lật tung.”
Nhưng khoảng cách giữa hắn ta và Nhạc Vô Trần không phải là rãnh biển, cũng không phải lạch trời, mà là oan nghiệt hai kiếp.
Ai dạy hắn ta làm sao quay lại kiếp trước đi.
Bước sang mùa hè, trời sáng nhanh hơn. Mặc dù đêm qua vất vả tới giờ Sửu mới sắp xếp xong nhưng từ trước tới nay Từ Bình Sinh luôn dậy sớm và đúng giờ. Cậu ta dùng muối tẩy rửa đánh răng sạch sẽ, xách một bình nước đi chăm sóc hoa cỏ trong sân, nghĩ lát nữa qua điện bên cạnh nhắc nhở Từ Hành Chi, đừng quên dậy sớm dẫn Mạnh Trọng Quang tới điện Thanh Trúc thỉnh an sư phụ.
Không ngờ trong lúc cậu ta nghĩ vậy thì nghe tiếng chào ở cửa điện: “Huynh trưởng.”
Mạnh Trọng Quang mặc một bộ đồ trắng nhẹ nhàng thoải mái, chắp tay sau lưng mỉm cười, màu trắng làm giảm không ít vẻ đẹp diễm lệ của hắn, dù Từ Bình Sinh nhìn gương mặt đẹp này nhiều năm rồi, mới nhìn thoáng qua vẫn thấy chói mắt.
Mạnh Trọng Quang bước vào trong điện, phóng khoáng tự nhiên vén áo lên vái lạy: “Xin thỉnh an huynh trưởng.”
Lúc này Từ Bình Sinh mới nhớ ra người này đã bước qua cửa nhà họ Từ, bây giờ đã thành người một nhà, nhất thời không biết nên gọi là đệ muội hay gọi thế nào, cậu ta quên cả bỏ bình nước xuống, gật đầu mất tự nhiên nói: “Ừ.”
Mạnh Trọng Quang đứng lên như thường, Từ Bình Sinh cố tình để ý, thấy hắn đi lại bình thường, ngờ ngợ cảm thấy hơi kỳ lạ.
Mặc dù cậu ta vẫn cô đơn lẻ bóng, chưa song tu bao giờ nhưng vẫn biết ít nhiều về chuyện này. Dáng vẻ thoải mái này của Mạnh Trọng Quang không giống với tưởng tượng của cậu ta.
Nhưng lúc này Từ Bình Sinh chưa nghĩ gì nhiều: “Thỉnh an ta trước ra thể thống gì? Ngươi và Hành Chi qua điện Thanh Trúc, thỉnh an sư phụ trước đã.”
Mạnh Trọng Quang nghe vậy thì hơi ngượng nghịu, cắn môi đau lòng nói: “Sư huynh không khỏe, sáng này thử nhiều lần nhưng thật sự không xuống giường được. Huynh trưởng muốn sư huynh đi thật sao?”
Từ Bình Sinh: “…”
Từ khi nhìn thấy Mạnh Trọng Quang tinh thần sảng khoái đi ra ngoài một mình, Từ Bình Sinh đã thấy có chỗ nào đó sai sai, được câu này của hắn nhắc nhở thêm, bỗng chốc hai mắt cậu ta tối sầm xuống, máu nóng dồn lên đầu ào ào.
Đệ đệ cục cưng anh tuấn phong độ của cậu ta lại nằm dưới Mạnh Trọng Quang?
Đột nhiên đệ muội biến thành muội phu, đả kích này thật sự quá lớn với Từ Bình Sinh, cậu ta vội vàng chạy qua điện bên cạnh thăm đệ đệ, quả nhiên thấy Từ Hành Chi vùi trong chăn mơ màng buồn ngủ.
Mùa hè đắp chăn mỏng nên không che được gì hết, trên cổ trên vai Từ Hành Chi cũng có dấu hôn xanh đỏ, hai hàng lông mi dài cụp xuống, run rẩy theo hơi thở, nhìn qua là biết phải chịu khổ quá mức.
Tâm trạng Từ Bình Sinh thay đổi to lớn, lúc quay đầu lại nhìn Mạnh Trọng Quang, khó khăn lắm mới thấy gương mặt đẹp ấy vừa mắt thì nó bỗng trở nên khó ưa: “Lau người cho hắn chưa?”
Mạnh Trọng Quang thành thật đáp: “Lau rồi.”
“Có bị thương… Khụ, bị thương ở đâu không?”
“Đệ kiểm tra rồi, huynh trưởng không cần lo lắng, chỉ quậy hơi hăng tí. Sư huynh mất sức.” Mạnh Trọng Quang ngồi chếch bên giường, chậm rãi xoa eo cho Từ Hành Chi đang nửa tỉnh nửa mơ: “Nghỉ ngơi thêm một lát nữa là có thể đứng dậy, chỉ sợ trễ giờ thỉnh an sư phụ thôi.”
Dù nói thế nhưng Từ Bình Sinh vẫn không yên tâm, hùng hổ quay về điện, lấy thuốc giúp tăng tuần hoàn máu, làm tan máu bầm và đan dược bổ khí dưỡng nguyên thần qua.
Từ Bình Sinh đi về, Từ Hành Chi vốn đang nằm trên giường giả vờ ngủ bỗng giơ tay lên, che hai mắt lại, nghiến răng nghiến lợi nói: “Con mẹ nó cả đời này ta không ra khỏi cửa nữa.”
Đối với cậu mà nói, đả kích đêm qua có thể nói là hủy thiên diệt địa, lật đổ hết nhận thức của cậu trong mười mấy năm qua. Tên khốn họ Mạnh không cần ai dạy mà tự biết chuyện này, cảnh tượng Mạnh Trọng Quang vén từng lớp áo váy xinh đẹp lên, nằm nhoài trên người cậu mà cọ xát đầy càn rỡ, cả đời này Từ Hành Chi không muốn nhớ lại cảnh đó nữa.
Trong lúc cậu cáu tức, một đôi môi mềm mại áp sát vào tai cậu, cách một lớp chăn, đẩy giọng nói mơ hồ vào trong tai Từ Hành Chi.
“Sư huynh, không sao đâu. Trừ huynh trưởng ra, không ai biết chuyện của hai chúng ta.” Mạnh Trọng Quang dùng giọng điệu làm nũng dỗ dành Từ Hành Chi: “Ta bôi thuốc tốt cho huynh, thêm ít linh lực. Chờ lát nữa chúng ta đi thỉnh an sư phụ, ta cố ý đi khập khiễng thì không ai nhận ra đâu. Được không?”
Dưới sự giúp đỡ của thuốc bôi ngoài da, cuối cùng đôi chân mềm nhũn như sợi mì của Từ Hành Chi cũng khôi phục tác dụng của mình, cậu cố gắng hết sức ngó lơ cơn đau trong bụng và phía sau, ưỡn thẳng lưng lên, cầm cự đến điện Thanh Trúc.
Mạnh Trọng Quang giả bộ rất yếu đuối, so với dã thú cắn mút, lăn lộn bừa bãi đêm qua quả thực như hai người khác nhau, ngay cả đệ tử đi ngang qua hai người bọn họ chào hỏi bọn họ xong cũng thoáng hiện vẻ thương xót và nụ cười ám muội.
Vào điện Thanh Trúc lại là một loạt lễ nghi kính trà, vái chào, Từ Hành Chi thấy đệm cói mà Thanh Tĩnh Quân sắp xếp cho mình quỳ êm và dày gấp đôi cái đệm của Mạnh Trọng Quang.
Đúng là sư phụ ruột mà.
Từ Hành Chi rất cảm động, kính trà xong thì ngồi quỳ xuống đệm cói: “Hôm qua sư phụ say bí tỉ luôn mà hôm nay dậy sớm thế ạ?”
“Xảy ra vài chuyện.” Nhạc Vô Trần rất bình thản: “Nhị sư đệ của con để lại thư rồi xuống núi. Bảo là muốn ra ngoài lang bạt. Bây giờ Khê Vân đang đi tìm hắn, nhưng hắn dọn đồ đi từ đêm qua rồi, với tốc độ của hắn thì chắc Khê Vân không đuổi kịp đâu.”
Từ Hành Chi cảm thấy bất ngờ: “La sư đệ?”
Nhưng Nhạc Vô Trần không nói gì nữa.
Trên thư Tạp La để lại có mấy lời không tiện nói với người khác.
Tạp La nói, hắn ta muốn ra ngoài lang bạt, không ở lại bên cạnh y làm chướng mắt y.
Tạp La còn nói, hắn ta đã hiểu ra nguyên nhân hắn ta muốn mà không có được, nhưng mà, nhưng mà, nếu có một ngày, hắn ta có thể trở thành tu sĩ không thẹn với đất trời, hắn ta vẫn mong Nhạc Vô Trần sẽ đổi ý, cho hắn ta cơ hội kề vai sát cánh.
Nhạc Vô Trần rụt tay vào trong tay áo, xoa lên mực xanh đã khô từ lâu, nhưng lại chạm đúng vào một giọt mực loang lổ trên tờ giấy.
Y rút tay ra, vờ như không quan tâm.
Thế này, cũng rất tốt.
Từ đó, lại qua mười mấy năm nữa.
Trong mười mấy năm, ma đạo chìm trong nội chiến dai dẳng, không rảnh quan tâm chuyện khác, cũng vì thế mà thế gian có được rất nhiều thời gian yên bình.
Cuộc sống hoa thông ủ rượu, nước sông xuân hãm trà cứ chậm rãi trôi qua như dòng nước.
Có lẽ vì có ví dụ sáng chói của Từ Hành Chi và Mạnh Trọng Quang đằng trước, được lan truyền thành câu chuyện mọi người ca tụng, hai năm sau tiệc cưới linh đình ấy, Chu Bắc Nam – Đại công tử của Ứng Thiên Xuyên quỳ trước điện của phụ thân tới mức hai gối tím bầm, cuối cùng cầu xin được Chu Vân Liệt xuống nước, thay đứa con trai lố bịch của mình đi xin cưới Lục Ngự Cửu – đệ tử trung cấp của Thanh Lương Cốc.
Ôn Tuyết Trần và thê tử Chu Huyền hạnh phúc êm ấm, hòa thuận yên vui nhưng con gái Ôn Vọng không biết theo tính ai trong hai người họ mà vô cùng nghịch ngợm, còn nhỏ đã vác hai thanh đao đồng chạy tới chạy lui, thích chạy đi chơi với Từ Hành Chi, thường xuyên khiến Ôn Tuyết Trần đau đầu cam chịu.
Hiển nhiên là sau khi Minh Chiếu Quân phi thăng, Khúc Trì kế nhiệm chức vị Phong chủ Đan Dương Phong, không ai biết từ bao giờ bên cạnh hắn có thêm một người hầu không dám cao giọng, ăn nói nhỏ nhẹ, chăm sóc cho hắn cẩn thận chu đáo. Từ đây, Khúc Trì ra khỏi điện là áo mũ chỉn chu, không vương một hạt bụi, mặc dù nét nghiêm nghị trên mặt chẳng giảm bớt nhưng khóe môi có thêm ý cười dịu dàng mà trước kia không có.
Có lẽ là trải qua tình kiếp, mọi suy nghĩ đều tiêu tan, tu vi của Cửu Chi Đăng tăng nhanh như gió, trở thành người đầu tiên phi thăng thành người thượng giới ở Phong Lăng Sơn sau Xích Hồng Quân.
Còn Từ Hành Chi và Mạnh Trọng Quang, cả hai nhất trí cho rằng làm thần tiên rất nhàm chán nên không nóng lòng tu luyện, chỉ yên tâm sống ở Phong Lăng Sơn, tỉnh thì ngắm hoa, say thì đùa nghịch, dù không làm gì cả, chỉ nằm ngồi mặt đối mặt thôi, họ đều cảm thấy cực kỳ tốt đẹp.
Nhạc Vô Trần nhìn thấy hết, chỉ cảm thấy cuối cùng kiếp này bản thân mình đã bảo vệ được người cần bảo vệ, sống rất đáng.
Thỉnh thoảng y sẽ nhận được một vài món quà không để tên, đều là rượu ngon ở khắp nơi, đều thống nhất dùng vò bằng bùn vàng, nhờ người gửi tới.
Hôm nay lại có một vò rượu được đưa tới điện Thanh Trúc. Nhạc Vô Trần mở nắp ra, cúi xuống ngửi thử, đúng là rượu ngon, chắc hẳn là được ủ bằng phương pháp bí truyền của thôn xóm huyện nhỏ nào đó.
Nhạc Vô Trần xách vò rượu lên, đi ra cái ao rượu mới hình thành ở sân sau, tiện tay vung một phát, cả vò rượu đổ hết vào trong ao.
Y xách vò rỗng vào một nơi sâu trong rừng trúc. Ở đó đã tích trữ được một lượng lớn vò bùn vàng, chồng từng cái lên, tạo thành một bức tường kích thước không nhỏ.
Nhạc Vô Trần vừa vòng trở về chỗ ở của mình thì Từ Hành Chi bước vào điện, báo lại tình hình hôm nay đi tuần núi.
Vừa mới vào điện, mắt Từ Hành Chi sáng lên: “Sư phụ, mùi rượu hôm nay rất đặc biệt, rượu ngon ở đâu thế?’
Nhạc Vô Trần nhẹ nhàng xoa cổ tay áo, chậm rãi nói: “Hành Chi đến không đúng lúc, ta uống hết rồi.”
Cùng lúc đó, ở trấn nhỏ dưới núi cách Phong Lăng Sơn hơn ba mươi dặm, một con ngựa non tuột khỏi dây cương, mất ràng buộc, hí vang lao nhanh trên đường lớn, chủ nhân gào thét gọi tên ngựa ở đằng sau, đuổi theo mãi mà ngay cả bụi do nó tung lên còn chẳng đuổi kịp.
Người đi đường dồn dập né tránh. Một cô gái trẻ vốn đã tránh đi rồi nhưng đúng lúc bị một vị khách đi ngang qua có trọng lượng cơ thể không nhỏ va vào vai, nàng hoảng hốt thốt lên một tiếng, mất thăng bằng, lao ra giữa đường.
Con ngựa kia chạy suốt một đường mà không có trở ngại gì, đột nhiên có một Trình Giảo Kim ăn mặc sặc sỡ xông ra, nó vừa ngạc nhiên vừa phấn khích, tung vó lên thật cao, khi đôi chân đóng móng sắt sắp rơi xuống thiếu nữ yếu đuối nhỏ bé ấy, đột nhiên có một cánh tay phải duỗi ra chặn ngang, đỡ lấy đôi móng ngựa ấy!
Tay trái người đó xoay chuyển như bay, cầm kiếm trong tay, dùng vỏ kiếm mang theo sức lực tựa sấm sét quẹt ngang chân ngựa, con ngựa không dùng được móng trước, chân sau lại bị đau, hí lên một tiếng rồi ngã lăn ra đất.
Nó chống bốn chân muốn đứng lên nhưng người đó chỉ thờ ơ trừng con ngựa một phát, con ngựa bị uy thế của người đó làm cho yên tĩnh hẳn lại, sau đó chủ nhân thở hồng hộc của nó dẫn con súc sinh ấy về, chắc chắn là phải bồi thường và xin lỗi.
Người đó cất kiếm vào bên hông, không quan tâm cô gái kia có đứng lên được không.
Nhưng cô gái được cứu chỉ liếc nhìn người đó một cái, gương mặt xinh đẹp đã đỏ bừng lên.
Nàng tự bò dậy, thướt tha hành lễ, rụt rè nói: “Tiểu nữ là thứ nữ của cửa hàng tơ lụa Mã thị ở trấn Phong Lăng. Xin hỏi, xin hỏi ân công tên họ là gì…”
Nghe nàng ấy hỏi, hàng lông mày rậm của tu sĩ áo đen mặt đen nhướng lên một cái đầy phóng khoáng, thoải mái hào phóng nói ra cái tên mà người kia đích thân tặng cho mình: “Tại hạ Phong Lăng La Thập Tam.”
1. Đào xấu
Đầu tháng ba, hoa đào ở Đan Dương Phong nở rộ.
Một cành đào được thần mùa xuân dùng làm tấm biển dẫn đường, tấm rèm mùa xuân vừa được vén lên, hoa đào trên núi đua nhau bừng nở, trời mây tươi sáng rực rỡ, hương hoa đào làm say lòng người. Tháng năm, quả đào chín, Khúc Trì gửi thiệp mời cho ba môn phái còn lại tới thưởng đào đàm luận đạo giáo, mời ba môn chủ tới Đan Dương, thảo luận về chuyện mùa xuân, giảng giải đạo kinh, cũng coi là một thú vui tao nhã.
Nhưng theo lời Từ Hành Chi thì là nhớ bổn sơn chủ thì cứ nói thẳng, bày vẽ làm gì.
Mấy người tham gia buổi tụ họp, dù là Từ Hành Chi, Khúc Trì hay là Chu Bắc Nam đều đắm mình trong rất nhiều sách, nếu nói là “ngồi đàm đạo” thì không thua kém gì lão hủ nho nghiên cứu đống sách cũ nát cả đời. Nếu có các đệ tử ở đây, chắc chắn bọn họ sẽ nghiêm túc hơn, nhưng đám bạn già tụ tập với nhau, không cần nói nhiều lời ra vẻ, cứ pha trà uống rượu, ôn chuyện ngắm hoa là được.
Tiệc thưởng đào của Khúc Trì không sánh bằng hội bàn đào trên thiên cung nhưng hơn ở chỗ tất cả mọi thứ được chuẩn bị đều thỏa đáng ấm áp: Buổi bàn luận đạo giáo được tổ chức ở gian điện nhỏ sau núi, hơi khuất và yên tĩnh, cũng để Chu Bắc Nam không bị ánh nắng chiếu vào; bàn và chén của Từ Hành Chi được đặt chếch sang trái, tiện cho y cầm nắm; chưa kể đến rượu ngon trà thơm, chỉ cần đẩy cửa sổ ra là có thể nhìn thấy thắng cảnh ngàn vạn cây đào, quả đào vừa mới hái trên cây xuống, rất tươi.
Tới khi mọi người ngồi vào chỗ của mình, Khúc Trì nhìn quanh một vòng rồi hỏi: “Sao Như Trú không đến?”
Từ Hành Chi vươn tay đặt chén bên trái sang bên phải, vừa mở nắp thưởng thức hương thơm của trà vừa tự hào nói: “Bây giờ Như Trú đã tiếp quản phòng thuốc của Thiên Phi Quân, chịu trách nhiệm luyện đan chế dược. Vừa rồi ta vô tình tìm thấy một bí pháp có thể tái tạo da thịt, giúp xương khô khôi phục vẻ ngoài như lúc còn sống trong một quyển sách cổ, vừa đúng với tình trạng của Như Trú. Ta giao một loại đan dược cần phải có trong số đó cho Như Trú luyện, chỉ nói thuốc này quan trọng, không cho muội ấy biết công dụng của nó. Muội ấy rất chú trọng, vì mấy hôm nữa là thuốc này sẽ ra lò nên muội ấy không có thời gian rảnh để đến đây.”
Khúc Trì vừa nghe lời y nói vừa theo dõi động tác của Từ Hành Chi, trông như có gì muốn nói nhưng lời đến bên miệng lại nuốt xuống.
Đôi mắt dưới mặt nạ của Lục Ngự Cửu sáng lên: “Thật sao? Nguyên sư tỷ…”
Từ Hành Chi dùng tay phải nâng chén lên, nhấp một ngụm trà, mắt cười cong cong: “Vào tầm này sang năm, ta sẽ dẫn muội ấy tới gặp ngươi bằng cổng chính, để những đệ tử mới biết phong thái của đệ nhất mỹ nhân của bốn môn phái ngày trước, biết thế nào là mặt người phản chiếu sắc đỏ hoa đào.”
Khúc Trì không cắt ngang lời nói chậm rãi tự tin của y, nhã nhặn nghe y nói xong mới khen: “Thế là tốt nhất.”
Nhưng trong lòng hắn hiểu rõ rằng: Hành Chi nói là tình cờ tìm thấy sách cổ nào đó, ai biết y đã trải qua bao nhiêu đêm thắp đèn thức khuya để tìm ra bí pháp, có khi y đọc hết đống sách rồi tự nghĩ ra cách cũng không biết chừng.
“Đơn giản thế là được rồi á?” Chu Bắc Nam nhíu mày.
Từ Hành Chi vung tay: “Bổn sơn chủ may mắn.”
Chu Bắc Nam nhìn cánh tay trái buông xuống bên mép bàn không động đậy: “Vậy thì xin hỏi Từ sơn chủ may mắn, tay trái của ngài bị làm sao thế?”
“Chu mập, đào rõ ngọn nguồn thì không thú vị đâu.” Từ Hành Chi “xùy” hắn ta với vẻ mặt chẳng hề thay đổi: “Nhìn Khúc sư huynh nhà người ta kia kìa, không nói nhiều dù chỉ nửa chữ.”
Khúc Trì bật cười.
Lục Ngự Cửu lại sốt ruột.
Cậu ta chỉ chăm chú nghe Từ Hành Chi nói chứ không để ý Từ Hành Chi đổi sang tay phải không thuận tiện lắm để nâng chén!
Lục Ngự Cửu đang định đứng dậy xem thế nào thì bị Chu Bắc Nam ngồi bên cạnh ấn đầu gối xuống.
Hắn ta liếc mắt về phía người bên cạnh Từ Hành Chi, ra hiệu Lục Ngự Cửu nhìn: “Nếu hắn bị thương nặng thật thì Mạnh Trọng Quang lại để hắn ra ngoài chắc?”
Mạnh Trọng Quang ngồi bên cạnh Từ Hành Chi, im lặng không nói gì, chăm chú gọt vỏ, cắt cùi đào giòn ngọt ra thành miếng, từng miếng được đặt trên đĩa sứ sạch sẽ, tiện cho Từ Hành Chi lấy ăn.
Nhưng trên mặt hắn không có xíu hớn hở gì hết, cũng không hào hứng lắm, chỉ chuyên chú phân cao thấp với quả đào, hệt như đang giận dỗi vậy.
Từ Hành Chi thờ ơ lắc quạt: “Không có gì to tát cả, đánh một trận với Chu Yếm Thú thôi. Nó suýt thì xé cánh tay ta, ta lấy thịt ở đầu quả tim của nó. Tính ra thì không thiệt.”
Chu Bắc Nam khịt mũi coi thường, cũng không tin: “Một con khỉ mà lại khiến ngươi thành ra thế này á?”
Từ Hành Chi muốn chém gió nữa nhưng Mạnh Trọng Quang rầu rĩ lên tiếng: “Trước đó sư huynh tra sách thuốc, dồn hết công sức mày mò suốt mấy tháng trời mới viết ra đơn thuốc có thể khiến xương trắng mọc ra thịt, đơn thuốc này cần thịt ở đầu quả tim của Chu Yếm làm thuốc dẫn, lúc dùng thuốc phải có da Quỳ Ngưu sống che lên cơ thể mới đem lại hiệu quả tốt nhất. Sư huynh giao hết chuyện trong núi cho ta, cầm Bút nhàn rỗi đi tìm dị thú thượng cổ Quỳ Ngưu, đánh một trận, trên người bị thương, thế mà vẫn không chịu dừng tay, muốn đi đánh Chu Yếm…”
Từ Hành Chi “hầy” một tiếng: “Ngươi nói nhiều thế, muốn làm ta bẽ mặt hả?”
Mạnh Trọng Quang giận dỗi: “Trọng Quang không dám.”
Từ Hành Chi thấy mặt và môi hắn đều tái nhợt, vô thức mềm lòng, xòe quạt trúc ra che mặt hai người lại, nói nhỏ: “Dỗ ngươi hai ngày rồi, sao vẫn cáu kỉnh thế?”
Mạnh Trọng Quang không đáp.
“Cho ta chút mặt mũi đi.” Nói thế thôi chứ Từ Hành Chi không phải ngươi để ý thể diện, hơi hé miệng với Mạnh Trọng Quang: “Tay không tiện, đút cho ta một miếng.”
Dù Mạnh Trọng Quang giận nhưng nhìn vào đôi mắt mỉm cười tỏa sáng của Từ Hành Chi, hắn cũng chịu thua, dùng mảnh trúc nhỏ xiên hai miếng đào đưa đến bên môi y.
Từ Hành Chi thản nhiên đón nhận, đồng thời ghé sát vào hắn nói nhỏ: “Chờ tối về ta lại dỗ ngươi nhé?”
Mạnh Trọng Quang không đáp lời nhưng khóe môi đang cố dằn xuống, dễ thấy là hắn phải tốn chút công sức mới ghìm nụ cười xuống được.
Tạm thời xoa dịu nhóc con cáu kỉnh xong, Từ Hành Chi thoải mái gấp quạt lại, uống một chén rượu, chép miệng khen: “Rượu hoa đào này ngon thật đấy, lát nữa cho ta mang một vò về cho sư phụ nếm thử nha.”
Đương nhiên Khúc Trì đồng ý luôn miệng. Tiệc thưởng đào tiếp tục.
Một lát sau, Chu Bắc Nam nhận ra điều không đúng.
Hắn ta nhìn chằm chằm quả đào trước mặt mình một lúc, rồi lại nhìn sang đĩa hoa quả trước mặt Khúc Trì, khó hiểu nói: “Khúc Trì, ta biết ngươi giản dị nhưng không đến mức để bản thân thiệt thòi như thế chứ.”
Đào tiên đãi khách thì quả nào quả nấy đều căng tròn mọng nước, cắt ra nước mật tràn trề, khiến người ta thèm ăn nhỏ dãi, còn quả đào trước mặt Khúc Trì, tuy đỏ tươi rực rỡ nhưng quả nào cũng nhỏ và xấu, vẻ ngoài chẳng đáng nhắc tới, nhìn kỹ còn thấy hai ba quả vị méo, rất khó coi.
Khúc Trì không để bụng, cầm một quả lên, dùng dao cắt ra, vẻ mặt và động tác có phần trang trọng dịu dàng: “Trông không được đẹp lắm nhưng rất ngon.”
Hắn bổ thịt quả ra, bỏ vào miệng, ngọt như ngậm mật, khóe miệng cũng nhếch lên một độ cong dịu dàng.
Khúc Trì được Minh Chiếu Quân đưa lên núi từ nhỏ, không phải cam lộ thì không uống, không phải linh quả thì không ăn. Mặc dù cam lộ nhạt nhẽo, linh quả chẳng có vị gì nhưng ăn nhiều lại thành quen.
Hắn không biết của ngon là gì nên không ham thích.
Ngây dại biết bao nhiêu năm, bây giờ nghĩ thông suốt, sáng dạ ra, Khúc Trì không gò bó bản thân, bằng lòng trải nghiệm muôn loại mùi vị trong nhân gian.
Mà thứ cho hắn nếm thử sự tươi đẹp của vị ngọt nhân gian đầu tiên chính là cây đào nhỏ ở trước cửa sổ phòng hắn.
Nhìn dáng vẻ ấy của hắn, Từ Hành Chi đoán ra lai lịch của quả đào xấu ngay, cố ý trêu hắn: “Ngon vậy thì có thể chia cho ta một quả không?”
Người trước giờ luôn rộng rãi hào phóng với người khác như Khúc Trì lại lập tức sửa lời: “Cũng không ngon lắm đâu.”
Dưới ánh mắt ngờ vực của Chu Bắc Nam và Lục Ngự Cửu, Từ Hành Chi cười vang, xoay quạt nói: “Của ngươi của ngươi, của ngươi tất.”
Chủ và khách đều vui vẻ xong, Khúc Trì quay về điện của mình. Vừa mới vào cổng, hắn đã nhìn thấy cây đào nhỏ mà hồi nãy hắn luôn nhớ mong đang rung lắc nhẹ, cành lá vang rào rào.
Lúc này không có gió, thứ khiến cậu ấy rung lên như thế là hai con ong mật đang chơi đùa vờn quanh cành cây có hoa của cậu ấy.
Mỗi một quả mọc ra đều được cậu ấy chăm chút kỹ lưỡng, mặc dù vẻ ngoài hơi xấu một tí nhưng được cái rất thơm ngọt. Hương đào khó tránh khỏi dụ ong bướm tới, mà cậu ấy sợ ong mật nhất, rõ ràng cậu ấy biết sẽ không bị đốt nhưng lúc bị cánh ong mật quạt vào cậu ấy vẫn không kìm lòng được mà thấy sợ, tình hình trước mắt chính là thế, cả cây đào nhỏ đều đang run rẩy.
Khúc Trì đi tới, dùng phất trần đuổi ong mật đi.
Cây không rung nữa, xòe cành lá ra, vươn cành cây giấu hai quả đào nhỏ ra, tặng cho sư huynh của cậu ấy.
… Quả đào của đệ đó, tặng huynh ăn nha.
Khúc Trì cũng không vội vàng nhận, múc nước linh tuyền tới bón cho cậu ấy ăn no trước, rồi kiên nhẫn phủi bụi rửa lá cây cho cậu ấy: “Kết quả có mệt không?”
Cây đào nhỏ lắc trái lắc phải.
“Không mệt là được.” Khúc Trì nói: “Không cần quá gượng ép, mỗi ngày ta ăn một quả là vừa rồi.”
Cây đào nhỏ lại lắc trái lắc phải tiếp.
Dù trong lúc riêng tư, Khúc Trì vẫn khách sáo lịch sự: “Rất ngọt, cảm ơn đệ.”
Cây đào nhỏ vui vẻ, một nhúm hoa cọ vào lòng bàn tay hắn, nhị hoa vàng nhạt vuốt nhẹ vào chỉ tay trong lòng bàn tay Khúc Trì, cọ rồi cọ, cây đào nhỏ hí hửng nhớ ra xấu hổ, cất quả đào xấu mà khó khăn lắm cậu ấy mới kết thành vào hoa lá sum suê.
“Đừng giấu đi.” Khúc Trì xoa lá của cậu ấy: “Vùi trong cành lá sẽ không thoải mái. Nghe lời.”
Cây đào nhỏ nghiêm túc lắc trái lắc phải.
Cho huynh ăn mà, không thể để người khác nhìn thấy, phải giấu đi.
Khúc Trì khẽ cười: “Đệ đó.”
Nhưng hắn không có tư cách dạy dỗ cây đào nhỏ, dù sao vừa nãy hắn cũng nảy sinh suy nghĩ riêng một cách hiếm có, chỉ muốn độc chiếm quả đào xấu này, không muốn chia sẻ với người khác.
Cây đào nhỏ giấu quả đào của mình đi như giấu một tâm sự bí mật không muốn để người khác biết.
Cậu ấy đang chuẩn bị, sau khi mùa hoa đào kết thúc, cậu ấy phải chăm sóc cơ thể thật tốt, đợi qua sang năm, phải cố gắng đơm hoa kết quả thật đẹp cho Khúc sư huynh xem.
2. Mặt nạ
Bây giờ công việc mà Thanh Lương Cốc đang làm là nhận quỷ.
Sau khi tu sĩ chính đạo chết đi, nếu hồn linh không muốn vào luân hồi, vẫn muốn duy trì tu vi lúc chưa chết, tu luyện bản thân thì có thể gia nhập Thanh Lương Cốc; nếu quỷ hồn có nghiệp chướng khó tan, khó vào luân hồi cũng có thể gia nhập Thanh Lương Cốc, tụng kinh ba năm, thờ đạo ba năm là có thể giải trừ chấp niệm, thực hiện mong muốn, giúp họ sớm ngày bước vào lục đạo.
Mưa dầm thấm đất từ Đại sư huynh tiền nhiệm Ôn Tuyết Trần mười mấy năm, Thanh Lương Cốc đóng cốc vẫn giữ được phẩm chất cương trực, rất phù hợp với công việc nhận hồn phách, giải trừ nghiệp chướng và siêu độ.
Nhưng vì nhận được sự giáo dục ấy từ nhỏ nên gần đây Lục Ngự Cửu khá khổ não, lúc nào cũng nhìn đèn tê giác rồi than thở.
Giải Tâm Viễn nhận ra nỗi u sầu của cậu ta, hỏi: “Cốc chủ có tâm sự sao?”
Lục Ngự Cửu không nghe nổi sư huynh gọi mình là cốc chủ, cứ thấy ngại ngại, nhưng lễ tiết phải thế, cậu ta đành phải mất tự nhiên “ừ” một tiếng, ngoan ngoãn kể tâm sự của mình ra.
Nói đơn giản, cậu ta trăn trở mãi vì một lời nói dối không thể làm sáng tỏ kịp thời của mình.
Ngọn nguồn của nỗi muộn phiền là vì căn bệnh bao che khuyết điểm của Chu Bắc Nam lại tái phát.
Mấy ngày trước, hắn ta đến Thanh Lương Cốc chơi, đúng lúc tóm được một tên quỷ đệ tử mới gia nhập môn phái nói luyên thuyên với các đệ tử khác, bảo rằng hắn từng nhìn thấy mặt cốc chủ, bị bỏng chẳng ra hình thù gì, cực kỳ xấu xí, vì thế mới đeo mặt nạ quanh năm để che giấu điều đó.
Mà đương nhiên là hắn toàn nói lời bậy bạ xúc phạm, Chu Bắc Nam nổi giận, xắn tay áo lên trừng trị kẻ đó một trận, gây ra rối loạn không nhỏ.
Lục Ngự Cửu biết được đầu đuôi câu chuyện thì dở khóc dở cười, dù sao cậu ta cũng tự biết mặt mình nguyên vẹn chẳng làm sao cả, bàn tán sau lưng chướng tai đến đâu cũng không làm gì được cậu ta, vì thế cậu ta khuyên Chu Bắc Nam mấy câu, bảo không quan trọng, hắn ta không cần lo.
Chu Bắc Nam có lòng tốt lại bị Lục Ngự Cửu trách mắng, giận dữ bỏ lại một câu “Đúng là không cần ta lo chuyện bao đồng, bây giờ Chu Bắc Nam này sao quản được cốc chủ Thanh Lương Cốc như ngươi” rồi phất tay áo bỏ đi.
Từ hôm đó, Chu Bắc Nam không thắp đèn nói chuyện lúc nửa đêm với cậu ta nữa, đèn tê giác thắp suốt ba đêm mà Lục Ngự Cửu không đợi được câu nào của Chu Bắc Nam, lại xót của vì lãng phí sừng tê giác đen nên hậm hực không thèm tìm Chu Bắc Nam nữa.
Tâm sự ấy kìm nén hơn nửa tháng, dần biến thành tâm bệnh.
Lục Ngự Cửu xoa mặt nạ của mình, nói nhỏ: “Đệ không biết nên nói với hắn thế nào…”
Nghe phiền não của cốc chủ xong, Giải Tâm Viễn cũng bối rối.
Thanh Lương Cốc có quy củ nghiêm ngặt, nghiêm tới mức mà nhiều năm qua, bên ngoài đều cho rằng Thanh Lương Cốc tu Tuyệt Tình Tông thanh tâm quả dục. Suy đoán ấy không sai: Hơn hai nghìn quỷ đệ tử trong cốc, trong đó chỉ có mười sáu người kết đôi với nhau.
Thân là một trong số hai nghìn người đàn ông độc thân, Giải Tâm Viễn thật sự không biết bày mưu tính kế cho cốc chủ.
Giải Tâm Viễn mặt toát mồ hôi nói: “Đệ tử bất tài.”
Lục Ngự Cửu không biết phải làm sao, chỉ đành vuốt mặt nạ, tiếp tục than thở.
Bọn họ đã quay về thế giới thực, sớm muộn gì cậu ta cũng phải đưa ra lời giải thích về khuôn mặt này của mình với Chu Bắc Nam.
Nhưng mấu chốt là… Phải nói thế nào đây?
3. Mặt nạ (2)
Cuộc gặp mặt tiếp theo của Chu Bắc Nam và Lục Ngự Cửu là vào lễ tế Đông Hoàng sau đó không lâu.
Mục đích của cuộc thi trong lễ tế Đông Hoàng là chọn đệ tử ngoại môn có tố chất để vào nội môn, nhóm Từ Hành Chi vốn không cần làm quan giữ trật tự nữa, chỉ cần trấn giữ ở tổng đàn là được nhưng tình trạng bên Thanh Lương Cốc không giống với ba môn phái còn lại.
Một, đây là lần đầu tiên có quỷ đạo tham gia lễ tế Đông Hoàng, vẫn chưa có cách tiến hành lễ tế hoàn chỉnh với quỷ đạo; hai là, đệ tử của Thanh Lương Cốc đều không thể xuất hiện vào ban ngày, chỉ khi ánh chiều tà buông xuống, đệ tử các nhà kết thúc một ngày săn bắn trở về tổng đàn nghỉ ngơi, họ mới có thể xuất phát.
Lục Ngự Cửu cũng vất vả lo lắng không thôi, ban ngày đi trông coi với ba môn chủ khác, tới tối phải làm quan giữ trật tự tạm thời, chỉ sợ đệ tử nhà mình gặp chuyện bất trắc, chỉ có mấy ngày ngắn ngủi mà nửa gương mặt dưới mặt nạ đã thấy cằm nhọn, càng khiến đôi mắt tròn sáng như nai thêm rung động lòng người.
Đêm ở núi Thái Hoa.
Gió núi đưa tiếng gầm thét của dị thú tới, mấy đệ tử mặc đồ màu ve xanh co giò chạy điên cuồng giữa rừng, một người dáng cao trong số họ vạch túi gấm bên hông ra, run rẩy bỏ vảy Phì Di nhặt được vào túi.
Trong lúc hỗn loạn, vảy giáp ánh ngọc mỏng manh rơi xuống đất, hắn vội vàng cúi người xuống nhặt, cổ vừa cúi xuống đã bị đệ tử bên cạnh túm gáy, đẩy về phía trước…
Một luồng linh tức nóng bỏng phun trúng vị trí tên cao ấy vừa cúi xuống, đốt tay áo tung bay của hắn thành tro bụi.
“Ngươi tưởng ngươi chết một lần rồi thì không thể chết lần nữa sao?” Đệ tử cứu tên cao một mạng không hề có vẻ tự phụ của một ân nhân cứu mạng, vừa kéo tên cao chạy như điên vừa chửi như tát nước: “Chỉ vì mấy miếng vảy mà ngươi định liều cho tan thành mây khó hả?”
Tên cao không không có gan cãi lại người đó, góc áo bốc khói mù mịt khiến chân hắn như nhũn ra. Mặt hắn tái xanh, không nhịn được đặt câu hỏi: “Làm sao bây giờ? Làm sao…”
Trong giây phút hoảng loạn, Phì Di đuổi theo đằng sau bọn họ bỗng gầm lên một tiếng như tiếng trống Hạt, âm thanh như sấm, gần như muốn hất bay đầu của các đệ tử chạy trốn, tên cao bị dọa cho mềm nhũn chân ra, ngã lăn xuống đất, run lẩy bẩy.
Tên đệ tử vừa rồi mắng to lại mừng ra mặt: “Cốc chủ!”
Tên cao mơ màng ngẩng đầu lên.
Lục Ngự Cửu – cốc chủ của bọn họ đứng lơ lửng giữa không trung với bộ đồ xanh nhạt tung bay, linh quang quanh người xiên ngang xiên dọc, thổi tung mái tóc dài buộc sau gáy cậu ta.
Mặt nạ quỷ dữ tợn che khuất hơn nửa gương mặt cậu ta, bên dưới mặt nạ lộ ra đôi mắt xanh lá đậm pha chút màu ngọc bích, tỏa ra ánh sáng nhạt lấp lánh. Một phù chú ngọc xanh dài lơ lửng trước người cậu ta dần dần chuyển động, theo tốc độ nhanh dần của nó, đất đen kịt xung quanh Phì Di mọc lên vô số nấm mồ, vô số hài cốt thối rữa chui ra từ trong đó, tay xương, răng nhọn trắng muốt leo lên cơ thể Phì Di, chặn cứng nó lại.
Thứ ngậm đuôi Phì Di khiến nó không thể động đậy là một con Phì Di xương xẩu chỉ còn lại cái đầu!
Lục Ngự Cửu cúi đầu nói với các đệ tử ngây người bên dưới: “Chạy.”
Nếu Giải Tâm Viễn ở đây hắn ta sẽ nhận ra cái liếc mắt lạnh lùng ấy của Lục Ngự Cửu giống Ôn Tuyết Trần thời hoàng kim năm đó tới bảy, tám phần.
Tên cao là kẻ nói bậy bạ về Lục Ngự Cửu rồi bị Chu Bắc Nam trừng trị vào mấy ngày trước. Là đệ tử ngoại môn, hắn không có tư cách gặp mặt cốc chủ, bây giờ, trong tình huống này được cốc chủ như thần linh giáng xuống cứu mạng, nhớ tới cái miệng nói linh tinh của mình mấy ngày trước, hắn xấu hổ không thôi, chỉ biết che mặt bỏ chạy.
So sánh như thần linh quả không sai nhưng vị thần này hơi thấp bé, đứng ở chỗ cao không thấy chứ lúc đáp xuống mặt đất, so với Phì Di cao hơn cả tòa tháp bảy tầng thì Lục Ngự Cửu hệt như thú cưng xinh xắn lanh lợi.
Phì Di không ngờ bị một đống xương bao vây tấn công, không tiến được mà lùi cũng không xong, bị đau nên nổi khùng, nghển cổ lên gào điên cuồng.
Dưới ánh trăng, vị trí bảy tấc của nó có một vết thương to bằng miệng bát vô cùng rõ ràng.
Lục Ngự Cửu bật cười: Đây là một người bạn cũ.
Cuộc thi trong lễ tế Đông hoàng có quy định, quan trật tự chỉ duy trì trật tự, đảm bảo an toàn cho các đệ tử tham gia thi đấu là việc quan trọng nhất, nếu không phải bất đắc dĩ thì không được giết hoặc đánh dị thú bảo vệ núi, quỷ linh cậu ta gọi ra cũng không có sát ý, mục đích chỉ là ngăn cản nó mà thôi.
Xác nhận các đệ tử đã chạy tới khu vực an toàn, Lục Ngự Cửu phất tay áo quay người lại, lúc chuẩn bị cưỡi gió đi khỏi đó thì Phì Di bị kéo chân tới đỏ mắt bỗng hung hãn mở to miệng ra, dồn hết sức lực phun một hơi thở đỏ mãnh liệt vào lưng Lục Ngự Cửu!
Lục Ngự Cửu sinh tồn trong Man Hoang nhiều năm, mọc thêm một con mắt sau lưng từ lâu, trong giây phút luồng hơi nóng ấy phun ra, cậu ta đã nhận ra điều bất ổn, cũng đã sẵn sàng di chuyển trong nháy mắt lên trước.
Nhưng có người nhanh hơn cậu ta.
Một bóng trắng vọt tới nhanh như sao chổi, ôm lấy cậu ta chạy vào rừng sâu, luồng hơi thở nóng đỏ kia còn chưa kịp phun vào lưng Lục Ngự Cửu, cậu ta đã đứng ở vách đá trống trải cheo leo cách đó hơn trăm thước.
Vừa mới đứng vững, Lục Ngự Cửu đã nghe Chu Bắc Nam giận dữ nói: “Quay lưng về phía dị thú, ngươi không muốn sống nữa hả?”
Dù sao người cũng đứng ở đây rồi, có hỏi tại sao hắn ta lại đi theo thì cũng thừa thãi.
Eo Lục Ngự Cửu vẫn đang bị Chu Bắc Nam ôm, mặt đỏ lên cũng không quên giải thích: “Ta định chạy rồi.”
Chu Bắc Nam há miệng nói luôn: “Chạy bằng cái gì? Dùng hai cái chân ngắn này của ngươi à?”
Lục Ngự Cửu: “…”
Ban ngày hai người đều muốn ra vẻ trang nghiêm trước mặt các đệ tử nên không nói chuyện riêng câu nào, bây giờ không dễ gì mới có chút thời gian nói lời trong đáy lòng, thế mà hắn ta lại không nói lý như thế, Lục Ngự Cửu tức quá đi mất.
Thấy Lục Ngự Cửu mím môi thẳng băng, hất tay muốn đi, Chu Bắc Nam biết cậu ta giận rồi, ảo não trách mình không biết ăn nói, tay không chịu buông Lục Ngự Cửu ra, cương quyết giữ người lại, không chờ Lục Ngự Cửu làm gì, hắn ta đã ôm mạn sườn Lục Ngự Cửu, bế cậu ta lên, để cậu ta giẫm lên bàn chân mình như ôm thú cưng: “Còn muốn chạy? Đứng yên đấy cho ta!”
Lục Ngự Cửu bị dán vào hương thơm Thụy Não thoang thoảng, nhất thời đỏ mặt tới tận mang tai, lại lo các đệ tử chưa chạy đi xa nên càng thêm rối rắm: “Ngươi làm gì thế? Buông ra!”
Chu Bắc Nam ôm lưng cậu ta, trưng vẻ không biết xấu hổ đánh chết cũng không buông.
Nếu bàn về cận chiến, Lục Ngự Cửu còn chẳng đánh nổi hai mươi chiêu với Chu Vọng, sao mà thắng Chu Bắc Nam được, đôi giày thêu chỉ bạc mềm mại giẫm lên giày Chu Bắc Nam, làm mình làm mẩy nói: “Mau buông ta ra!”
Chu Bắc Nam vẫn không buông: “Ngươi chờ một lát!”
Chờ một lát, ta nghĩ ra cách xin lỗi ngay đây.
Từ khi quay về thế giới thực, nhậm chức cốc chủ Thanh Lương Cốc, dù há miệng hay ngậm miệng, trong lòng trong mắt Lục Ngự Cửu chỉ có môn phái, càng ít khi nói chuyện với Chu Bắc Nam.
Lúc còn ở trong Man Hoang, trong số quỷ nô mà Lục Ngự Cửu nuôi chỉ có hắn ta có linh phách tương đối hoàn chỉnh, điều đó khiến Chu Bắc Nam tự nhiên cho rằng hắn ta và Lục Ngự Cửu chỉ có đối phương, ai ngờ quay về thế giới thực, đột nhiên bên cạnh Lục Ngự Cửu có thêm hai nghìn quỷ nô, người nào người nấy đều là người cậu ta mong nhớ suốt bao năm qua.
Chu Bắc Nam thừa nhận hắn ta sợ.
Nếu Lục Ngự Cửu không quan tâm tới hắn ta nữa, hắn ta sẽ thành thứ gì? Một cô hồn dã quỷ không ai chạm vào được, không ai tiếp xúc được sao?
Lần trước hắn ta nổi nóng với Lục Ngự Cửu cũng chỉ vì Lục Ngự Cửu bảo vệ cho một tên đệ tử ngoại môn, hắn ta hoảng hốt bất an tột độ mới làm ra hành vi đó. Mấy ngày sau đó hắn ta không thắp đèn đáp lại, Lục Ngự Cửu cũng không tới tìm hắn ta nữa, tự dưng khiến hắn ta lo lắng thấp thỏm nửa tháng.
Chuẩn bị một lúc lâu, Chu Bắc Nam mở miệng nói ra lời trái ngược với những gì mình nghĩ: “Sao mấy hôm nay không thắp đèn?”
Lục Ngự Cửu nói lý lẽ: “Ngươi không thắp đèn đáp lại.”
Chu Bắc Nam hỏi ngược lại: “Ta không đáp lại thì ngươi không thắp à?”
Câu ấy cực kỳ không biết xấu hổ, Lục Ngự Cửu tức tối trợn trừng mắt lên: “Sừng tê giác đen có tiền cũng không mua được, vốn đã hiếm, ngày thường dùng nhiều, chẳng may gặp chuyện khẩn cấp phải thông báo cho bốn môn phái thì phải làm sao?”
Chu Bắc Nam nghe vậy thì thở phào nhẹ nhõm khó có thể nhận ra.
Hóa ra chỉ là thiếu sừng tê giác thôi.
“Thiếu gì thì ngươi cứ nói với ta.” Chu Bắc Nam không dùng sức giữ Lục Ngự Cửu nữa, ôm cậu ta ngồi xuống mép tảng đá: “Muốn bao nhiêu sừng tê giác đen, ta mang tới cho ngươi là được.”
Lục Ngự Cửu biết hắn ta muốn làm hòa.
Mỗi lần hai người cãi nhau, Chu Bắc Nam luôn là tức tối nhất cũng là người nhận sai nhanh nhất, Lục Ngự Cửu quyết định không thể chiều theo tật xấu của hắn ta, bèn sầm mặt không nói gì.
Chu Bắc Nam gọi cậu ta: “Tiểu Lục.”
Lục Ngự Cửu không đáp.
Chu Bắc Nam hôn vành tai cậu ta.
Lục Ngự Cửu nhẫn nhịn đỏ cả mặt, cố kiềm chế không nhúc nhích.
Thấy cậu ta lạnh nhạt như thế, Chu Bắc Nam càng hoảng hơn, dè dặt nói: “Sau này… Ta thắp đèn tìm ngươi, được không?”
Nhận ra vai gáy Lục Ngự Cửu vốn kéo căng đã thoáng thả lỏng ra, Chu Bắc Nam thở phào một hơi.
Con người thả lỏng sẽ dễ nói ra lời từ tận đáy lòng hơn. Chu Bắc Nam bèn điều chỉnh tư thế để Lục Ngự Cửu vốn ngồi trên đùi mình đổi thành quay lưng về phía mình.
Lục Ngự Cửu hơi khó hiểu, muốn quay đầu lại nhìn hắn ta nhưng thấy vòng tay hắn ta đặt bên eo mình hơi siết chặt lại.
“Đừng nhìn ta.” Chu Bắc Nam áp đầu vào lưng Lục Ngự Cửu, cứ như dùng tư thế này mới tiện cho hắn ta nói lời trong lòng ra.
“Tiểu Lục, chúng ta đừng cãi nhau nữa, được không?”
“Ngươi có hai nghìn sư huynh Thanh Lương Cốc ở bên cạnh, còn ta chỉ có một mình ngươi thôi, có đôi lúc… Ta, khụ, rất sợ, sợ vào một lúc nào đó ngươi sẽ chia tay ta. Ta biết tính nết thối tha của mình rất đáng ghét, sau này ta sẽ cố gắng sửa đổi…”
“A Vọng tới Đan Dương Phong học cách quản lý với Khúc Trì rồi, đợi con bé học xong, ta sẽ giao lại Ứng Thiên Xuyên cho con bé, cho con bé thừa kế.”
Nói xong câu đó, Chu Bắc Nam ôm chặt người trong lòng: “Đến lúc đó, ta sẽ tới cốc của ngươi, ngày ngày bầu bạn với ngươi, để ngươi đỡ mất công thắp đèn.”
Lục Ngự Cửu quay lưng về phía hắn ta, nghe hắn ta nói bằng giọng điệu yếu kém ấy, trong lòng cậu ta hơi khó chịu, lặng lẽ vươn tay ra để ai kia vui vẻ nắm chặt lấy rồi mới nhỏ nhẹ nói: “Ta bổ sung thêm tinh nguyên cho ngươi nhé.”
Từ khi Lục Ngự Cửu lên Nguyên anh, cậu ta có thể bổ sung tinh nguyên cho Chu Bắc Nam khi cách một khoảng xa, vì thế đã lâu rồi cậu ta không trải qua khoảng thời gian hai người ở riêng rồi lặng lẽ ôm nhau thế này.
Đương nhiên Chu Bắc Nam đồng ý ngay.
Rất nhanh sau đó, ánh sáng vân mây ấm áp màu tím nhạt bao phủ cơ thể hai người, hòa với bóng núi Thái Hoa màu xanh đậm.
Cuộn mình trong lòng hắn ta, Lục Ngự Cửu cảm thấy như quay về một buổi tối nào đó trong Man Hoang, hai người cãi nhau vì mấy chuyện lông gà vỏ tỏi, còn phải kìm nén sự không bằng lòng xuống mà ôm nhau, sợ hôm sau Chu Bắc Nam ra ngoài tìm chìa khóa mà không đủ tinh nguyên.
Bây giờ nghĩ lại, khoảng thời gian đó chắc hẳn là “Sống nương tựa lẫn nhau”.
Trong lúc chậm rãi truyền tinh nguyên vào cơ thể Chu Bắc Nam, Lục Ngự Cửu dần quyết định một việc.
Chờ ánh sáng hoa văn mây quanh người biến mất, viên ngọc trên cổ Lục Ngự Cửu cũng không sáng lên, chứng tỏ các đệ tử khác đều đang đi tìm đồ tế Đông Hoàng một cách yên ổn, không có chuyện ngoài ý muốn xảy ra.
Hai người sóng vai ngồi trên tảng đá, lặng lẽ đan tay vào nhau, bầu không khí cực kỳ an yên.
Nhưng rất nhanh sau đó, Lục Ngự Cửu đã phá vỡ sự yên bình ấy: “Ta có một chuyện muốn nói với ngươi.”
Chu Bắc Nam quay sang nhìn cậu ta.
“Còn nhớ lần trước ngươi đánh đệ tử ngoại môn của Thanh Lương Cốc bọn ta không?”
Lông mày Chu Bắc Nam hơi nhướng lên một cái.
Hắn ta biết lần trước mình ỷ lớn hiếp nhỏ, ỷ mạnh hiếp yếu, đúng là chẳng vẻ vang gì, lúc này Lục Ngự Cửu lại nhắc tới, tám mươi phần trăm là muốn hắn ta tự mình tới cốc xin lỗi tên đệ tử ngoại môn bị hắn ta chỉnh đốn.
Dù hơi không vui, Chu Bắc Nam vẫn đáp: “Ừ, nhớ.”
Lục Ngự Cửu nói: “Ngươi không nên trách hắn, hắn không biết chuyện của ta, chỉ khoác lác thế thôi.”
Chu Bắc Nam không khách sáo nói: “Lần này thì thôi, nếu lần sau bị ta tóm được thì ta vẫn đánh hắn như thường.”
“Ngươi không cần bảo vệ ta như thế…”
Thấy Chu Bắc Nam lại không vui, Lục Ngự Cửu vươn tay đặt lên mặt nạ, ngại ngùng mỉm cười: “Ta cho ngươi biết một bí mật, ngươi không được tức giận…”
4. Ác mộng
Mạnh Trọng Quang lại giận dỗi Từ Hành Chi, nguyên nhân là vì một chuyện Từ Hành Chi cho rằng cực kỳ nhỏ nhặt:
Lúc y và Chu Bắc Nam dùng đèn tê giác tán gẫu, thuận miệng nói “Nếu chuyện này không thành công, ta vặt đầu xuống cho ngươi”, đúng lúc bị Mạnh Trọng Quang nghe được.
Không biết Mạnh Trọng Quang lấy cái nết hay cáu giận ở đâu ra, trở mặt với y ngay tại chỗ, giận đùng đùng đi mất.
Từ Hành Chi chẳng hiểu ra sao, so với việc bị Chu Bắc Nam trêu chọc “Thê tử quản nghiêm”, y muốn biết rốt cuộc Mạnh Trọng Quang bị làm sao hơn.
Trong ấn tượng của Từ Hành Chi, tuy Mạnh Trọng Quang ấu trĩ tùy hứng, lúc nào cũng gây chuyện nhưng không hề nhạy cảm, lo được lo mất đến mức này, cứ như mỗi một ngày có được đều vì may mắn, tới đêm không ngồi thiền, không ngủ yên, nhất quyết dùng cả tay cả chân ôm y cho bằng được. Có lúc nửa đêm thức giấc, Từ Hành Chi có thể cảm nhận một cách rõ ràng rằng hắn vẫn chưa ngủ, gọi hắn mà hắn không thưa, chỉ dùng hô hấp nặng nề và cơ thể đẫm mồ hôi lạnh để đáp lại.
Từ Hành Chi nhân cơ hội này hỏi Chu Bắc Nam: “Trọng Quang ở Man Hoang cũng thường xuyên nằm mơ thấy ác mộng không ngừng thế này à?”
Chu Bắc Nam phủi sạch quan hệ: “Sao ta biết được, ta với hắn đâu có ngủ chung phòng.”
Nói đến đây, hắn ta ngẫm nghĩ lại, nói tiếp: “Sau khi ngươi vào Man Hoang thì hình như hắn hơi khác lúc trước.”
Trong mắt Chu Bắc Nam, Mạnh Trọng Quang vui giận thất thường, vốn không cố định, sau khi gặp lại Từ Hành Chi sau mười ba năm xa cách, tính tình thay đổi cũng là điều bình thường, vì thế nghe Từ Hành Chi hỏi cũng không để bụng, chỉ thuận miệng rồi nói thôi.
Thấy Từ Hành Chi đăm chiêu, Chu Bắc Nam cười y: “Coi ngươi kìa, chẳng lẽ ngươi lại sợ hắn chắc?”
Từ Hành Chi mở quạt ra khẽ cười, thẳng thắn đáp: “Đương nhiên là ta sợ hắn rồi.”
Sợ hắn buồn, sợ hắn không ngủ được, càng sợ mười ba năm mà mình nợ hắn dù trả thế nào cũng không trả hết được.
Từ Hành Chi tắt đèn tê giác đi, quay người đi về điện, không hề bất ngờ khi bị nhốt ngoài điện.
Y gõ cửa: “Trọng Quang, chúng ta nói chuyện đi.”
Người bên trong không muốn nói nhiều, cánh cửa đóng chặt giống như cái miệng sắt giữ kín bí mật.
Từ Hành Chi nghiêm túc nghĩ xem có nên phá cửa xông vào hay không nhưng y từ bỏ suy nghĩ ấy ngay lập tức.
Cửa hỏng thì người sửa vẫn là mình.
Y ngồi xếp bằng trên hành lang trước điện, lấy bầu rượu ra nói: “Ngươi không mở cửa thì ta ở đây chờ.”
Từ Hành Chi nói chờ tức là quyết tâm chờ tới cùng. Y vừa rót rượu cho bản thân vừa dùng thuật truyền âm, liên kết tới thức hải của một người nào đó, nói: “Bá Ninh, mang ít công văn tới tẩm điện của ta.”
Rất nhanh sau đó, một thiếu niên thanh tú trầm tĩnh mang mấy cuốn sách thẻ tre xuất hiện ở chỗ cổng vòm. Tuy còn trẻ tuổi nhưng thiếu niên ấy đã có phong thái trang nhã như bức tranh thủy mặc điểm xuyết sắc đỏ, chỉ có đôi môi chẳng cần tô cũng đỏ, đứng đó thôi cũng đã thành bức tranh non nước của vị văn nhân.
Thường Bá Ninh đặt sách xuống trước mặt Từ Hành Chi, hỏi: “Sư phụ, sao không vào trong ạ?”
Từ Hành Chi ngậm miệng bầu rượu, uống một hớp, phóng khoáng nói: “Bị sư nương con đuổi ra ngoài.”
Thường Bá Ninh đã quá quen với chuyện này rồi, cong môi cười: “Vậy thì con bỏ mấy cái này ở hành lang cho người nhé.”
Thường Bá Ninh là đồ đệ Từ Hành Chi mới thu nhận sau khi bốn môn phái mới được thành lập, cậu ấy có thiên linh căn, thiên phú cực cao, điều đáng quý hơn là có trái tim nhàn tản, có đôi chút phong thái thoải mái thảnh thơi ngồi ngắm mây trôi.
Nói trắng ra là người này cực kỳ giống Thanh Tĩnh Quân Nhạc Vô Trần hồi trẻ.
Nghe thấy hai chữ “sư nương”, Mạnh Trọng Quang ngồi trong điện bị chọc cho mím môi lại.
Không phải Mạnh Trọng Quang không muốn cho y vào điện mà là không thể.
Từ lúc hắn quay về điện, tất cả các đồ vật trong tầm tay đều bị hắn quăng ném trong lúc mất khống chế, tới khi kiệt sức mới ngừng tay, bây giờ khắp nơi đều là bình vỡ ấm nứt, ngọc nát vải bay, nếu để Từ Hành Chi đi vào nhìn thấy, e là sẽ dọa y sợ.
Mạnh Trọng Quang rất vui mừng vì trong lúc phát điên mình vẫn nhớ đây là tẩm điện của sư huynh, không dùng tới pháp lực, nếu không, sợ rằng bây giờ cả ngọn núi chính của Phong Lăng Sơn sẽ chìm trong nguy hiểm.
Mạnh Trọng Quang nhìn cây nến đổ nghiêng trên đất, sắp tắt tới nơi, há miệng khẽ cất tiếng cười khổ.
Sư huynh bảo muốn nói chuyện nhưng có gì hay mà nói chứ?
Nói chuyện thẳng thắn chỉ khiến sư huynh thêm muộn phiền, Mạnh Trọng Quang không nỡ để những ký ức tối tăm nặng nề, tràn ngập ô uế nhớp nháp ấy dính vào sư huynh dù chỉ mảy may.
Qua một trận đập phá không đầu không đuôi, Mạnh Trọng Quang cực kỳ mệt mỏi, hắn dựa vào giường, ngước nhìn tấm màn lụa do giao nhân làm ra, uể oải nghĩ ngợi, sư huynh thể hàn, không chịu nổi sương đêm, trước khi mặt trời lặn phải dọn đống lộn xộn đầy đất xong rồi để sư huynh vào.
Nghĩ về tâm sự ấy, hắn dần thấm mệt, chợp mắt ngủ thiếp đi.
Cửa sổ trong phòng đều đóng chặt, tấm lụa nhạt màu rủ xuống phất phơ trong cơn gió nhẹ, tung bay như múa. Giữa tấm lụa trong suốt ấy, bóng mờ phân thân của Từ Hành Chi đứng trước giường, nhìn xung quanh một lượt rồi khẽ mắng: “Tên phá của.”
Nếu không phải vì gọi Thường Bá Ninh đến trước, dùng lời nói khiến Mạnh Trọng Quang buông lỏng cảnh giác, chắc là y sẽ không dễ đạt được mục đích của mình.
Từ Hành Chi búng ngón tay, thu hồi sợi ánh sáng vô hình quấn quanh đầu ngón tay.
Đây là bảo khí được luyện hóa từ sâu ngủ, có thể khiến người ta ngủ sâu, không dễ tỉnh lại. Sâu ngủ này là sinh vật sống, vốn không cần luyện hóa cũng sử dụng được nhưng Từ Hành Chi thật sự không thể chấp nhận nổi việc bỏ mấy con sâu có thể nhúc nhích bò lên quạt mình, chỉ đành tốn thêm chút công sức, giao cho người khác xử lý rồi y mới dùng.
Y không quan tâm tới đống bừa bộn trong phòng mà ngồi bên giường, xoa yêu ấn trên trán Mạnh Trọng Quang.
Chỗ đó cực kỳ nhạy cảm với Mạnh Trọng Quang, chỉ mới chạm tay vào thôi đã khiến người trên giường co rúm lại, gương mặt tái nhợt vùi vào gối, tựa như đang trốn tránh gì đó.
Từ Hành Chi khẽ thở dài.
Nếu Mạnh Trọng Quang không chịu mở lòng với y thì y tự tìm khe hở chui vào vậy.
Dù vết thương lòng đau đến đâu cũng không thể bịt kín mãi không chữa trị được. Từ Hành Chi không thích để những chuyện không cần thiết trở thành ngăn cách giữa mình và Mạnh Trọng Quang, càng không hi vọng một mình Mạnh Trọng Quang gánh vác quá nhiều những thứ vốn không nên do hắn gánh vác.
Từ Hành Chi vẫn nhớ lúc ở Man Hoang, y từng thử tìm thức hải của hắn nhưng suýt thì bị bi thương mênh mông như biển nhấn chìm.
Mạnh Trọng Quang trong trí nhớ của Từ Hành Chi luôn thích cười, thích quậy phá, không kiêng dè gì cả, không bị vạn trượng hồng trần trói buộc, không bị hàng nghìn quy tắc gò ép, hắn là một đứa trẻ tự do phóng khoáng, ngây thơ, có suy nghĩ không theo lẽ thường.
Ít nhất hắn không nên trầm lắng u buồn như bây giờ, cứ như cõng cả thế giới trên lưng vậy.
Từ Hành Chi thở hắt ra, cúi người xuống, dán cái trán lành lạnh của mình lên yêu ấn trên trán hắn, thì thầm: “Trọng Quang, cho ta xem thử rốt cuộc bị làm sao.”
Lúc Mạnh Trọng Quang bỗng bật dậy khỏi giường thì đêm đã khuya lắm rồi.
Ngoài cửa gió lạnh gào thét, sấm chớp rền trời, từ hoàng hôn đến bây giờ, trời đã đổ mưa to suốt nửa đêm.
Thoạt đầu Mạnh Trọng Quang cứ cảm thấy trái tim trống rỗng, bỗng dưng trong ký ức có một khoảng trống kỳ lạ cần được lấp đầy. Hắn ôm khuôn mặt nóng lên vì ngủ, căng mắt ra nghĩ xem nguồn gốc của sự trống rỗng này đến từ đâu.
Qua một lúc rất lâu, hắn mới nhận ra.
Ấy thế mà hắn không nằm mơ?
Lúc ở bên cạnh sư huynh, số lần Mạnh Trọng Quang nằm mơ thấy ác mộng sẽ giảm bớt nhưng phần lớn thời gian hắn không thể thoát khỏi sự giày vò của cơn ác mộng như nhọt độc mọc tận trong xương tủy, chỉ khi ôm chặt Từ Hành Chi sau khi giật mình tỉnh lại, thậm chí cố tình gây sự đòi hỏi này kia, hắn mới xác thực người trong lòng không phải giấc mơ của hắn.
Khi cuộc hành trình của Từ Hành Chi ở trong Man Hoang bắt đầu, y mơ thấy giấc mơ kỳ lạ mấy lần đều do Mạnh Trọng Quang không kiềm chế xúc động trong lòng được rồi làm chuyện tội lỗi.
Tới khi nhận biết rõ đây là đâu, lúc này là năm tháng nào, Mạnh Trọng Quang chẳng thèm xỏ giày, chân trần giẫm lên một đống mảnh vỡ, vội vàng chạy ra ngoài.
Cổ áo ngoài của Mạnh Trọng Quang hơi nới lỏng, lồng ngực có cảm giác nóng bỏng kỳ lạ, nhưng sư huynh đang bị chặn bên ngoài, hắn làm gì nhớ tới mấy cái đấy nữa?
Hắn kéo mạnh cửa điện ra.
Trong không khí có mùi tanh thoang thoảng, không biết bắt nguồn từ bùn đất bị rửa trôi hay giun bị ngâm nước trong đất.
Quả nhiên, Từ Hành Chi vẫn ở ngoài điện.
Y không để bản thân chịu thiệt. Nếu vẫn không biết tốt xấu dưới thời tiết này mà lấy trời làm màn lấy đất làm chiếu thì e là sẽ bị lạnh chết luôn mất. Vì thế y biến Bút nhàn rỗi thành đệm chăn rất dày, bệ vệ nằm ngửa mà ngủ trong gió lạnh trên hành lang bên ngoài, không hề quan tâm ngoài điện có đệ tử đi lại hay không.
Có thể đoán trước được ngày mai Phong Lăng sẽ chẳng thiếu lời ra tiếng vào.
Sư phụ bị sư nương đuổi ra ngoài điện dầm mưa, bất đắc dĩ chỉ đành tự trải chăn đệm nằm đất, cực kỳ thê thảm, cực kỳ khủng khiếp.
Không biết có phải vì bị cảm lạnh hay không mà nửa gương mặt Từ Hành Chi lộ ra bên ngoài trông tái nhợt.
Mạnh Trọng Quang đau lòng cắn môi, lặng lẽ đi tới bế ngang người ấy lên, đá văng cánh cửa bị gió thổi đóng lại, đi vào bên trong.
Rời xa ổ chăn ấm áp, Từ Hành Chi giật mình thức dậy ngay. Y không vội đứng xuống đất mà khẽ cười vùi vào lồng ngực Mạnh Trọng Quang, hỏi hắn: “Dậy rồi đó à?”
Mạnh Trọng Quang im lặng ném Từ Hành Chi xuống giường, ngay sau đó nghiêng người đè lên y, thanh niên mặc quần áo thường ngày lỏng lẻo đè lên người áo mũ chỉnh tề, vẫn chưa cởi áo tháo trâm, quả thực có chút kiều diễm.
Nhưng động tác không quá mạnh mẽ ấy lại khiến Từ Hành Chi nhếch miệng cười.
“Sao huynh không gõ cửa?” Mạnh Trọng Quang chất vấn: “Trời mưa, bị lạnh thì phải làm sao?”
Trong lúc chất vấn y, Mạnh Trọng Quang cứ cảm thấy có gì đó là lạ.
Chẳng biết từ lúc nào mà hắn lại có thói quen nghe tiếng tim Từ Hành Chi đập nhưng hôm nay hắn cảm thấy nhịp tim của Từ Hành Chi không giống mọi khi, nhưng nhất thời không nói rõ được khác ở đâu.
Hắn không thích cảm giác ngoài tầm kiểm soát này, suy nghĩ xấu xa muốn xác thực Từ Hành Chi tồn tại lại dấy lên như lửa trên bình nguyên.
Những nụ hôn dày đặc trút xuống, Mạnh Trọng Quang cắn môi Từ Hành Chi như trừng phạt, dây dưa một lúc, ngón tay bò lên dọc theo eo, véo hạt lựu nho nhỏ rồi nhào nặn mãnh liệt.
Từ Hành Chi bỗng hít sâu như bị đau quá.
Bình thường Từ Hành Chi rất chịu xoa nắn kiểu này, hơi hít sâu ấy khiến Mạnh Trọng Quang giật mình, buông tay ra ngay lập tức: “Sư huynh? Sao thế?”
Từ Hành Chi thở ra một hơi thật dài rồi nhổm người dậy, ôm lấy người đang hoảng sợ vào lòng, bày tỏ suy nghĩ: “Ta không sao. Trọng Quang, ngươi cũng sẽ không sao đâu.”
Mạnh Trọng Quang mờ mịt được Từ Hành Chi ôm vào lòng.
Trong cơ thể lành lạnh của người đối diện có một trái tim nóng hừng hực, đập thình thịch bên trái ngực y, hòa vào tiếng tim đập trong lồng ngực hắn.
Hắn như hiểu ra gì đó, ánh mắt thay đổi, luống cuống vạch vạt áo trước ngực Từ Hành Chi ra.
Một vết sẹo nhỏ mảnh dạng tia màu đỏ tươi kéo xuống dưới từ chếch bên tim Từ Hành Chi, trên đó còn có ánh sáng lờ mờ xoay chuyển.
Tay Mạnh Trọng Quang run lên, đầu ngón tay giữa chạm vào nó, nhịp đập truyền ra từ nơi đó đồng nhất với tiếng vang rung động của cục thịt trong ngực trái hắn.
Tay chân luống cuống kéo vạt áo trước của mình ra, nhìn thấy tia đỏ giống y như đúc, Mạnh Trọng Quang rưng rưng nước mắt, nghe thấy lời thì thầm dịu dàng của Từ Hành Chi: “Quảng Phủ Quân bắt ta chép không ít sách. Ta biết trận pháp Lạn Kha là gì.”
Thật ra Từ Hành Chi đã chuẩn bị tâm lý với tất cả mọi thứ sắp nhìn thấy trong thức hải Mạnh Trọng Quang rồi.
Y nhìn ra được Mạnh Trọng Quang để ý tới chữ “chết” mà y thuận miệng nói ra nhất, hơn nữa hắn còn biết rất nhiều bí mật lẽ ra hắn không nên biết.
Rõ ràng chỉ có Từ Hành Chi là ký chủ của sách Thế Giới mới cảm ứng được được từ nơi sâu xa về vị trí mảnh vỡ chìa khóa Man Hoang, nếu Mạnh Trọng Quang biết trước, với khả năng của hắn, hắn sẽ không phí công ở Man Hoang suốt mười ba năm mà đi tìm đủ chìa khóa, ra ngoài giết Cửu Chi Đăng, nô dịch đệ tử ma đạo, ép bọn chúng đến Man Hoang tự tìm kiếm, đó mới là việc hắn có thể sẽ làm.
Kết hợp mấy điểm này lại, hơn nữa Từ Hành Chi còn biết một vài trận pháp thượng cổ, không khó đoán ra kết quả có khả năng cao nhất ấy.
Nhưng mà tận mắt nhìn thấy luôn khác với những gì tưởng tượng trong đầu, mức độ và số lần của mấy lần chết khốc liệt vượt xa dự kiến của Từ Hành Chi, tới mức y thoát ra khỏi thức hải mà tim đập nhanh ngây người một lúc lâu.
Nhưng trước giờ Từ Hành Chi không thích u buồn rầu rĩ, gặp phải rắc rối, dù thế nào cũng phải tìm ra cách giải quyết mới được.
Hai tia đỏ ấy là cách giải quyết mà Từ Hành Chi nghĩ ra.
Mạnh Trọng Quang ở trong Man Hoang học tập từ Khúc Trì nhiều năm, sao hắn không biết đó là gì cho được?
Đồng tâm chú, tên gần giống với đồng mệnh chú mà Mạnh Trọng Quang từng gắn vào chủ Phong Sơn, công hiệu cũng gần như nhau, đều là thuật pháp bàng môn tà đạo.
Theo truyền thuyết, người tạo ra chú này là một phương sĩ trẻ tuổi, năm xưa gã đánh bại một tên ma tu nhưng lại sơ suất bị tàn hồn của ma tu đó nhập vào cơ thể, mắc phải tâm bệnh, đêm không ngủ được. Dưới sự giày vò ấy, người này không chịu đựng nổi, âm thầm sáng tạo ra loại chú thuật này, đi khắp ngõ phố suốt ngày đêm, lén lút thực hiện pháp thuật này khiến người vô tội đi ngang qua phải gánh chịu một phần ác mộng với mình.
Pháp thuật này vốn có hiệu quả rất cao, người bị gã thực hiện pháp thuật ấy nằm mơ thấy ác mộng mấy lần, đổi lại cho gã mấy ngày ngủ yên, nhưng vì gã lòng tham không đáy, một người vô tội chịu chú thuật này không chịu nổi ma khí nên chết oan, phương sĩ này gánh sát nghiệp, bị bốn môn phái bắt giam, chú thuật ấy cũng bị bốn môn phái lấy được.
Mà điểm đặc thù dễ thấy nhất của chú thuật này là ngực của người thực hiện chú thuật và người chịu chú thuật có một tia đỏ, có tia đỏ này liên kết, hai bên có chung tâm mạch, làm tâm ma ổn định, nếu muốn giải trừ chú thuật này thì chỉ có thể ra tay ở phía người thực hiện chú thuật.
Từ Hành Chi hôn vành tai hắn, cười nói: “Lần này… Ngay cả trái tim ta cũng cho ngươi thật rồi đó.”
Sau khi hiểu ra, Mạnh Trọng Quang ấn lồng ngực mấy lần, cảm nhận được linh mạch xa lạ kết nối với trái tim hắn, hai người hòa vào nhau, không thể tách ra.
Hắn hoảng hốt, gãi tia đỏ kia thật mạnh, móng tay cào ra từng vết trắng chứa tơ máu trên lồng ngực trần, nước mắt rưng rưng nói: “Ai muốn trái tim của huynh chứ! Ta không muốn, sư huynh lấy đi, huynh lấy ra đi…”
Hắn không nên để sư huynh biết đến những ác mộng kia, sư huynh tuyệt đối không thể…
Những giọt nước mắt như vụn thủy tinh vụn rơi vào trong trái tim Từ Hành Chi, xoắn lại khiến y đau đớn không thôi nhưng y vẫn nở nụ cười trên mặt. Y nắm chặt hai tay Mạnh Trọng Quang, không nói gì cả cứ thế mà hôn môi hắn, chặn hết những câu nói lộn xộn ở đầu lưỡi.
Tới khi người nằm trên người y bình tĩnh lại, Từ Hành Chi mới buông môi hắn ra, dán vào tai Mạnh Trọng Quang, giọng nói nóng bỏng khàn khàn: “Đừng sợ, đừng sợ, tim ngươi đập nhanh quá, không chịu nổi…”
Mạnh Trọng Quang nằm trong lòng Từ Hành Chi, nghĩ lại những ngày đêm khó vượt qua thuở trước, khó chịu đến mức răng va cầm cập: “Sư huynh…”
“Khóc gì chứ?” Từ Hành Chi lau nước mắt cho hắn: “Chúng ta là bạn đời của nhau rồi, tất cả mọi thứ đều phải mỗi người một nửa, thế không tốt ư?”
Mạnh Trọng Quang cắn răng nổi nóng: “Sư huynh nói dễ dàng quá, gì mà mỗi người một nửa?”
Mạnh Trọng Quang cảm nhận được một cách rõ ràng rằng đau đớn khi nhớ lại chuyện ngày xưa đã giảm bớt không ít, thậm chí ngay cả cảnh tượng chết chóc khắc ghi vào tận xương tủy cũng không còn hiện rõ trước mắt nữa, cứ như cơn mưa dữ dội bên ngoài ngấm vào trong ký ức, dựng lên một tầng mưa bụi mờ mịt.
Dễ thấy là Từ Hành Chi đã chịu hơn nửa ác mộng ấy rồi!
Nếu đã bị phát hiện rồi thì Từ Hành Chi không kiêng dè gì nữa, y khẽ cười bóp mũi hắn: “Ta vô tâm vô cảm nhất mà, chia cho ta nhiều hơn cũng không sao.”
Mạnh Trọng Quang khóc nức nở một lúc mới dần yên tĩnh lại, cọ trong lòng Từ Hành Chi, chăm chú nghe tiếng tim đập.
Từ Hành Chi thấy hắn ngoan ngoãn lại thì yên tâm hơn nhiều, nghĩ đến mấy lời giận dỗi vừa rồi của hắn bèn dùng ngón tay nhẹ nhàng vuốt tia đỏ trên ngực Mạnh Trọng Quang, cười đùa: “Vừa nãy ai nói không cần trái tim của ta ấy nhỉ?”
“Ta cần.” Mạnh Trọng Quang ngẩng đầu lên, khịt mũi, cái mũi ửng đỏ vừa đáng thương vừa đáng yêu: “Cần mà.”
Từ Hành Chi bật cười, hôn mạnh lên tai hắn: “Nếu ngươi cần thì cho ngươi hết.”
Hai người vốn đang mặc quần áo lỏng lẻo lại cọ xát một lúc lâu, cả hai đều khô nóng, ống quần Mạnh Trọng Quang bị dây leo mềm mại đỉnh gồ lên từng cục to, vươn dài ra từ trong ống quần, dần dần tết thành mảnh rừng rậm rạp tràn ngập hương thơm ấm áp của thực vật, chọc ghẹo khắp cơ thể Từ Hành Chi.
Mạnh Trọng Quang giỏi tìm cớ: “Lần này sư huynh làm trận pháp nên tiêu hao nhiều linh lực, ta bù đắp lại cho sư huynh.”
Từ Hành Chi rất mệt mỏi, định từ chối nhưng nghĩ tới đôi mắt ngấn lệ của Mạnh Trọng Quang, trái tim bị nước mắt làm mềm hơn nửa, đôi tay chống trên vai hắn định đẩy hắn ra ngoài lại di chuyển xuống dưới, cởi khuy áo vẫn còn sót lại cho hắn.
Thôi, thôi, tùy hắn vậy.
Một đêm mưa to, tiếng mưa rả rích che đậy rất nhiều âm thanh, khiến trời và đất, mây và trăng hai thành một, hòa vào một thể, không tách rời nữa.
Bên bờ Li Giang, cảnh xuân tươi đẹp, gió nam lướt nhẹ qua mặt, một ông lão ngồi trên bè trúc cầm cần thả câu, vài gợn sóng cong cong như mặt bè trúc lăn tăn trên mặt nước như gương.
Hương cỏ lau non hòa với hơi nước phả vào mặt. Đợt rét cuối mùa xuân đã trôi qua, hơi nước không nóng bức lắm, phả lên mặt rất khoan khoái.
Ở bụi lau sậy cách đó không xa có một chiếc thuyền nhỏ đang lềnh bềnh trong đó, Từ Bình Sinh nằm ở mạn thuyền, ngậm một đoạn rễ lau ngọt thanh trong miệng, nhấm nháp thưởng thức hương vị.
So với hắn, trông Tạp Tứ nhếch nhác hơn rất nhiều, trên đầu cắm đầy hoa lau, rất giống có một con gà làm ổ trên đầu hắn ta.
Tạp Tứ vừa chèo thuyền vừa than khổ không ngừng: “Không phải đã nói là chèo thuyền du ngoạn sao, ta mới chợp mắt một lúc, trôi vào bụi lau sậy mà ngươi không kéo ra à.”
Từ Bình Sinh thích cỏ lau, vì thế hắn không đôi co với Tạp Tứ, lại bẻ cây lau bỏ vào miệng hút dịch ngọt tiếp.
Tạp Tứ không nhận được câu đáp lại bèn nhấc cây sào dài chọc vào eo hắn: “Này này này, dậy đi, nằm cứ như nhị đại gia của ta vậy.”
Từ Bình Sinh bĩu môi quay lại lườm hắn ta, nhưng thấy ổ gà hoa lau trên đầu hắn ta thì ngây người, khóe môi hơi nhếch lên.
Tạp Tứ thấy mới lạ, giọng điệu cao lên: “Ngươi biết cười cơ à?”
Từ Bình Sinh mím môi thành một đường thẳng băng ngay tức khắc, quay mặt đi không nhìn hắn ta nữa.
Từ Bình Sinh biết cười khơi gợi lên hứng thú của Tạp Tứ.
Sau đó, hắn ta dùng hết toàn bộ sức lực, vò đầu bứt tai, loay hoay mãi chỉ để Từ Bình Sinh cười với hắn ta cái nữa.
Nhưng gương mặt đó còn ngay thẳng và nhạt nhẽo hơn cả cái quan tài, dù cho hắn ta bày trò gây chuyện thế nào, nó vẫn không động đậy gì.
Sau nhiều lần thử nghiệm, Tạp Tứ chán nản, lẩm bẩm oán hờn: “Ngươi còn khó lấy lòng hơn cả đầu bảng thanh lâu.”
Từ Bình Sinh hỏi ngược lại: “Ngươi từng đi thanh lâu à?”
Tạp Tứ nói bậy mà vẫn hùng hồn: “Không, Hành Chi kể với ta đó, hắn bảo là đầu bảng xinh đẹp nhất ấy à, có người bỏ ra ngàn lượng vàng cũng khó mua được một nụ cười của người ta.”
Từ Bình Sinh cau mày nói: “Hành Chi còn nhỏ, hắn sẽ không vào mấy nơi đó đâu. Ngươi đừng vấy bẩn thanh danh của hắn.”
Tạp Tứ hơ một tiếng: “Hắn có thanh danh à?”
Từ Bình Sinh không vui khi người khác đánh giá đệ đệ mình như thế, đang định nổi cáu thì Tạp Tứ ra tay trước, kéo hắn vào lòng, vươn tay chọc vào thịt mềm bên eo và dưới nách hắn, định chọc hắn cười.
Từ Bình Sinh trợn to hai mắt.
Hắn là tỉnh thi, đúng là không ngứa, không đau, nhưng dù lúc còn sống hay sau khi chết, hắn đều bài xích các hành vi thân mật theo bản năng.
Hắn kháng cự lại bị Tạp Tứ tưởng thành sợ ngứa, Tạp Tứ càng hăng say hơn, kết quả là bị Từ Bình Sinh vùng vẫy giật đầu mấy lần, giật cho hắn ta nổi cáu luôn.
Hai người đùa nghịch biến thành trận ẩu đả nửa thật nửa giả, lăn qua lăn lại trên bè trúc, vẩy nước ướt hết cả người, chọc cho ông lão thả câu phía xa hô lên liên tục, bảo bọn họ đừng làm cá của lão sợ.
Hai người đành phải ngừng lại, nhìn nhau chòng chọc.
Một lúc lâu sau, Tạp Tứ tức giận nói: “Ta muốn ăn mì Tam Hoa.”
Hai người ra ngoài, đương nhiên tiền do Từ Bình Sinh quản lý, nếu không Tạp Tứ nhìn thấy một thanh kiếm tốt, hắn ta có thể ném hết toàn bộ phí chi tiêu của bọn họ đi luôn, sau đó hai người họ chỉ có thể ngủ ở miếu hoang, ăn quả dại thôi.
Từ Bình Sinh cầm tiền trong tay nên đầy tự tin, hung dữ nói: “Chịu đói đi.”
Gần nửa canh giờ sau, hai người quay về quán trọ trong thành nhỏ Li Giang mà họ đang ở.
Mặc dù Tạp Tứ không tu Huyết Tông hay Thi Tông phổ biến ở ma đạo nhưng hắn ta cũng không đi theo con đường tĩnh tâm tu luyện, vì thế hắn ta không kiêng kỵ dục vọng nào của người phàm. Nghe nói mì Tam Hoa của Li Giang ngon tuyệt đỉnh, lúc cách thành nhỏ Li Giang hơn trăm dặm Tạp Tứ đã kêu gào đòi ăn, bây giờ ngồi trong quán mì, nhìn bát mì tam hoa với nước dùng thanh thanh thơm ngon đặt trước mặt, trận cãi cọ không quá vui vẻ trước đó đã bị hắn ta ném lên chín tầng mây rồi.
Hắn ta tự nhiên đẩy cho Từ Bình Sinh: “Ngươi ăn trước đi.”
So với hắn ta thì Từ Bình Sinh thù dai hơn nhiều, kéo bát mì về phía mình chẳng thèm đùn đẩy khách sáo, bỏ thêm giấm xong thì cố tình giấu lọ giấm xuống ghế.
Tới khi bát mì của Tạp Tứ được đặt lên bàn, hắn ta định lấy gia vị thì sờ phải chỗ trống không.
Hắn ta nhìn xung quanh: “Giấm đâu?”
Từ Bình Sinh im lặng.
Liếc quanh một vòng không thấy giấm đâu, Tạp Tứ không cố hỏi, thuần thục kéo bát mì vừa được Từ Bình Sinh cho thêm giấm qua, công bằng công chính múc nửa thìa giấm trong đó vào bát mình.
Từ Bình Sinh: “…”
Hắn càng tức hơn rồi, tức tới mức không muốn trả tiền.
Ăn uống no đủ, tính tiền, hai người chán chường đi dạo phố.
Từ Bình Sinh biết, đời này Tạp Tứ thích kiếm nhất, mỗi khi đến nơi nào đó, hắn ta đều đi dạo hết các tiệm binh khí có tiếng trong vùng, tìm hiểu tình hình sản xuất vật liệu đá ở địa phương, hỏi thăm rõ ràng xong thì lên núi gần đó dạo chơi một vòng. Nếu phát hiện ra ở đó không có vật liệu nào thích hợp để đúc kiếm, hắn ta sẽ hậm hực bỏ về ngay lập tức, cũng tự xếp nơi đó vào mục “nơi tồi tàn, không bao giờ đến nữa”.
Trước kia mỗi lần bọn họ đi du lịch đều lặp đi lặp lại quy trình đó, vì thế vừa mới ra khỏi quán mì, Từ Bình Sinh đã hỏi thăm người qua đường: “Xin hỏi tiệm binh khí ở đây…”
“Tiệm binh khí gì chứ.” Hắn không ngờ Tạp Tứ kéo hắn lại như túm con gà con: “Đi, chúng ta đi dạo chơi trong thành.”
Tạp Tứ nói dạo chơi trong thành thì đúng là dạo chơi thật.
Hắn ta dẫn Từ Bình Sinh tới tiệm may trước, chỉ vào một đống chỉ thêu rồi hỏi: “Ngươi thích màu gì? Chọn một cái đi.”
Đón nhận ánh mắt khó hiểu của Từ Bình Sinh, Tạp Tứ hơi tự đắc ghé vào bên tai hắn nói nhỏ: “Lần sau ngươi cụt tay cụt chân thì ta thêu hoa văn cho ngươi ở chỗ vá. Uyên ương nghịch nước hay bát tiên mừng thọ?”
Từ Bình Sinh không tỏ rõ ý kiến.
Với cái trình độ may vá của Tạp Tứ, thêu uyên ương thành gà đã tốt lắm rồi.
Hắn sờ mấy sợi chỉ, nhận xét: “Mềm quá, giòn quá, chỉ thô bền hơn.”
“Nếu muốn bền thì truyền linh lực vào là được.” Tạp Tứ cười híp mắt: “Trước kia ta vá cho ngươi xấu quá. Nếu không phải vì sợ ngươi rã rời ra hết, ta còn muốn dỡ ra vá lại cho ngươi cơ.”
Từ Bình Sinh trợn mắt lườm hắn ta, chọn hai loại chỉ gần với màu da nhất, Tạp Tứ thì chẳng thèm quan tâm có chói mắt hay không, chọn một đống chỉ màu sắc sặc sỡ như lam, cam, đỏ.
“Chỗ này, chỗ này nữa, mua hết đi.” Tạp Tứ vui vẻ chỉ vào Từ Bình Sinh, nói với chủ tiệm: “Hắn trả tiền.”
Từ Bình Sinh: “…”
Hai người dạo trong thành nhỏ cả một buổi chiều, toàn mua mấy thứ mà Từ Bình Sinh thấy vô dụng, chỉ mứt hoa quả, mận khô, tương ớt chao đậu đã đầy hai túi to, còn các món đồ nhỏ chọn ở các sạp hàng thì những cái treo được đã treo hết lên người Từ Bình Sinh.
Từ Bình Sinh nhìn sắc trời, phía chân trời đã có ráng mây đỏ xuất hiện, nếu rề rà tiếp thì e là không kịp vào núi tìm đá.
Tạp Tứ thì chẳng hề sốt ruột, lại dừng chân trước một sạp vẽ bên rìa đường, xoa cằm ngắm nghía.
Thư sinh trung niên trông sạp thấy có vị khách lạ mặt tới trước sạp thì chào hỏi đầy thân thiện: “Vị khách quan này muốn vẽ chân dung không? Ở vị trí này đúng lúc có thể nhìn thấy hẻm núi Hoàng Ngưu, chỉ cần ba trăm văn, ngồi đây nửa canh giờ, tiểu nhân có thể vẽ một bức đủ núi, sông, người cho khách quan.”
Từ Bình Sinh nghe đắt như thế, đang định từ chối thì nghe thấy Tạp Tứ nói: “Hai người, bốn trăm văn, vẽ không?”
Thư sinh cười tươi rói, trải giấy ra ngay lập tức: “Vẽ chứ.”
Từ Bình Sinh tức nghẹn họng: “Ngươi…”
Tạp Tứ dùng chân móc một cái ghế qua, tiện tay ôm lấy túi giấy, túi vải trong lòng Từ Bình Sinh, bỏ xuống cái ghế bên cạnh rồi kéo Từ Bình Sinh ngồi xuống: “Đến Li Giang rồi, dù sao cũng phải có gì đấy để chứng minh chứ đúng không?”
Chứng minh này đắt quá, Từ Bình Sinh túm chặt túi ngân lượng bên hông với vẻ không tình nguyện, đang định lùi về sau thì bị Tạp Tứ túm chặt cổ tay: “Này, trước kia ngươi vẽ chân dung bao giờ chưa?”
Từ Bình Sinh lắc đầu.
“Trùng hợp quá, ta cũng chưa vẽ bao giờ.” Tạp Tứ hào hứng ngồi xuống ghế, quay đầu sang Từ Bình Sinh: “Mau lên, buộc lại tóc cho ta đi, buộc đẹp vào.”
Từ Bình Sinh tức hắn ta phá của, lại chẳng làm gì được hắn ta, đành phải trút giận lên tóc hắn ta, cố ý buộc cho Tạp Tứ quả đầu căng chặt, kéo cho hắn ta nhe răng trợn mắt, đôi mắt vốn hẹp dài lại còn xếch lên.
Tạp Tứ không so đo với hắn, chờ buộc tóc xong thì kéo hắn xuống ngồi cùng mình, nói với thư sinh: “Làm phiền ngươi, vẽ hắn tươi tắn hơn xíu.”
Từ Bình Sinh: “…”
Thư sinh đồng ý luôn miệng, Từ Bình Sinh khá nghi ngờ, nếu Tạp Tứ bỏ thêm một trăm văn nữa, thư sinh này sẽ vẽ hai bọn họ thành tiên luôn.
Đây là lần đầu tiên Từ Bình Sinh được vẽ chân dung, ngồi ngay ngắn, vững vàng như núi một lúc lâu mới nhận ra hình như mình có thể cử động và nói chuyện.
“Kiếm của ngươi thì sao?” Từ Bình Sinh nhỏ giọng hỏi Tạp Tứ: “Bao giờ ngươi đi tìm kiếm?”
Tạp Tứ nhìn thẳng phía trước, lời ít mà ý nhiều: “Không tìm.”
Từ Bình Sinh nghĩ: Chắc ý là hôm nay không tìm.
Lại tốn thêm tiền thuê phòng một đêm…
Hắn mở túi tiền ra, dùng đầu ngón tay đếm lại lượng tiền bên trong. Tiêu xài một buổi chiều, nó đã xẹp xuống không ít, chỉ còn ít bạc vụn, xem ra hơi nghèo rồi.
Từ Bình Sinh biết trong túi có mấy viên linh thạch thượng hạng, chỉ cần đổi bất cứ viên nào cũng đủ cho bọn họ thuê một căn phòng chữ thiên trong quán trọ thượng hạng trong năm năm.
Nhưng chỗ đó không thể dùng bừa bãi được, Tạp Tứ mua đá đúc kiếm phải dùng chỗ linh thạch này.
Từ Bình Sinh nghĩ sầu lo vì kế sinh nhai của hai người.
Lúc vẽ chân dung xong, ráng mây như đốt lửa khắp trời cũng dần biến mất. Trong bức tranh có núi, có sông, có hai người sóng vai ngồi dưới ráng chiều.
Tạp Tứ cầm tranh chân dung của hai người, xem mãi không xong.
Rời khỏi sạp hàng, đi thật xa rồi Từ Bình Sinh vẫn chau mày: “Đắt.”
Tạp Tứ nhìn Từ Bình Sinh cười tươi trong tranh, cười nói: “Bốn trăm văn mua khuôn mặt cười của ngươi, rất đáng.”
Từ Bình Sinh rầu rĩ vì tiền bạc bật thốt ra: “Tiêu pha vì cái này thì thà ta cười cho ngươi…”
Tiếng nói im bặt.
Tạp Tứ đoán hắn không nói nửa câu còn lại ra khỏi miệng được, cất bức tranh đi: “Được, ngươi tự nói đấy nhé, cười cho gia coi cái nào.”
Từ Bình Sinh nhìn qua chỗ khác: “…”
Tạp Tứ mặt dày học theo mấy kẻ ăn chơi, nâng cằm Từ Bình Sinh lên, Từ Bình Sinh đỏ mặt, nhấc chân đạp hắn ta, Tạp Tứ bị đạp một phát cũng không giận, cười ha hả xoa tóc Từ Bình Sinh.
Vì cái miệng lanh chanh, một ngày Tạp Tứ sẽ bị con lừa mình nuôi đá cho ít nhất tám phát nhưng hắn ta vẫn không thể quản lý được cái miệng thối của mình, còn nói không biết mệt.
Hai người quay về quán trọ, sắp xếp các thứ.
Vì vừa nãy trêu đùa dữ quá, Từ Bình Sinh ngó lơ hắn ta, cứ buồn bực phân loại các đồ mua về rồi quay người ra khỏi phòng.
Tạp Tứ tắm xong, Từ Bình Sinh vẫn chưa trở về.
Tạp Tứ vác mái tóc ướt nhẹp nhỏ nước chẳng buồn dùng pháp thuật hong khô, ngậm một miếng mứt mơ bò lên giường, nằm ngửa ngang giường, rũ mái tóc rối xuống mạn giường, vừa nhai vừa chờ nước còn sót lại trên tóc khô.
Nếu hắn ta dám làm thế này trước mặt Từ Bình Sinh, chắc chắn sẽ bị đạp xuống giường, nhân lúc Từ Bình Sinh không có ở đây, Tạp Tứ mới dám làm càn.
Hắn ta nằm không chán quá, lại mở chân dung lúc chiều ra xem.
Nói thật thì kỹ năng vẽ vời của thư sinh kia không đáng bốn trăm văn tiền, vẽ dáng người hơi thô kệch, may mà nắm bắt thần thái rất tốt, vẽ Từ Bình Sinh hơi mỉm cười, ngũ quan trông hiền hòa hơn ngày thường gấp bội.
Tạp Tứ rất mong Từ Bình Sinh mang dáng vẻ như người trong bức tranh, đâu như bây giờ, đang là bạn đồng hành đi du lịch yên ổn mà cứ như cha ruột hắn ta vậy.
Nghĩ như vậy, Tạp Tứ ôm chân dung vào lòng, nghiêng người, vô thức ngủ thiếp luôn, vào trong mơ tìm bạn đồng hành biết nói biết cười của hắn ta vậy.
Nửa đêm, cơn gió núi quét qua cửa sổ chưa đóng chặt, chốt cửa đập mạnh vào khung cửa khiến Tạp Tứ ngủ nông trên giường giật mình tỉnh dậy.
Bên cạnh trống không, Từ Bình Sinh vẫn chưa về.
Tạp Tứ bỗng hoảng hốt, vươn người xuống giường, đẩy cửa sổ vừa bị gió đêm đóng lại ra.
Hơi nước mát lạnh phả vào mặt, hắn ta không có tâm trạng hưởng thụ, nhìn trăng non lơ lửng giữa trời, giơ tay lên dụi mắt phải.
Từ Bình Sinh từng uống máu hắn ta, có huyết khế với hắn ta, có thể xem là thi nô của hắn ta, vì thế hai người có thể dùng chung một đôi mắt, nhìn được những gì đối phương thấy, ngửi được những gì đối phương ngửi thấy.
Chỉ trong chớp mắt, Tạp Tứ bỗng sầm mặt, hai tay chống lên bệ cửa sổ, tung người nhảy vào màn đêm đầy hơi sương bên ngoài cửa sổ.
Trong chốc lát, trên đường đã không còn bóng dáng hắn ta.
Ánh trăng sáng ngời, dải ngân hà cùng soi chiếu khiến cho khe núi đẹp như tranh vẽ thêm phần thanh nhã.
Trong một hang động tối ở khe núi, dựa vào dây leo bò chằng chịt mà phân tách trong ngoài hang thành hai thế giới hoàn toàn khác biệt.
Hai tay Từ Bình Sinh bị trói chặt ở đằng sau, nằm trên vũng máu chảy ra từ cơ thể mình, cả người trắng bệch chẳng thấy màu máu, cổ tay, cổ chân, cần cổ lộ ra ngoài đều bị dao sắc cứa rách, vết thương trắng bệch, không còn máu chảy ra nữa.
Một người nhàn nhã bước đến, giẫm lên mặt Từ Bình Sinh lật gương mặt nằm nghiêng của hắn hướng lên trên trời.
Từ Bình Sinh không rên tiếng nào, mắt nhắm hờ lại như hôn mê.
Người kia hừ một tiếng: “Không biết đau, cũng không chết được, đúng là hời cho hắn mà.”
Một tên đầy tớ theo sau gã nghe vậy thì vồn vã phụ họa: “Môn chủ nói đúng lắm, quả thật hời cho hắn. Nếu muốn Tạp Tứ đau thấu tim gan thì chi bằng băm tên này thành tám khúc, lột da tróc thịt…”
Trong chỗ tối của sơn động, một giọng nam trầm bỗng vang lên: “Nếu tiễn hắn đi chết thật thì làm sao Tạp Tứ tìm đến đây được? Làm sao dụ hắn tự chui đầu vào lưới được?”
Người này vừa lên tiếng, tên vừa nịnh hót môn chủ không dám nói nhiều nữa, lúng túng đáp: “Tôn chủ nói đúng…”
Người đàn ông được gọi là tôn chủ nở nụ cười u ám: “Không giết hắn được nhưng dùng hắn làm đá thử kiếm thì thừa sức.”
Tên nịnh hót cười ha hả, chắp tay về phía bóng tối rồi nói: “Xin nhận mệnh lệnh của tôn chủ, thuộc hạ đã hiểu…”
Nhưng không chờ gã nói ra gã hiểu điều gì, trên đầu đột nhiên vang lên tiếng rít gào như rồng gầm.
Đá bắn tung tóe, kiếm khí ập tới!
Cái đầu trên cổ gã bay ngang ra, chỉ chừa lại cái cổ đứt ngang to bằng miệng bát, máu trào ra cuồn cuộn như được đun sôi, nhưng chẳng thể dính tí nào vào ống tay áo của người vừa đến.
Tạp Tứ đứng thẳng dậy trong gió mạnh do mũi kiếm dấy lên, tà áo bay ngược lên chốc lát rồi bất động.
Hắn ta nhìn chằm chằm Từ Bình Sinh trong vũng máu, đôi mắt xám xanh toát ra sự sắc lạnh như mũi kiếm: “Ngươi vừa nói ai là đá thử kiếm?’
Đương nhiên lời ấy không nói cho Từ Bình Sinh nghe nhưng Từ Bình Sinh bắt được giọng nói quen thuộc nên hơi nhúc nhích cơ thể.
Dù cạn máu rồi, Từ Bình Sinh vẫn không có cảm giác gì, chẳng qua là cảm thấy cơ thể rất mệt mỏi, mí mắt nặng tựa ngàn cân, dù làm thế nào cũng không nhìn rõ khuôn mặt người vừa tới.
Nhưng hắn lại thấy yên tâm vô cớ.
Khi Tạp Tứ chém vỡ đá núi, xông thẳng vào hang động, tôn chủ kia đã đứng thẳng dậy từ một tảng đá ẩm ướt, vài ba tia ánh trăng chiếu vào hang soi sáng gương mặt tái nhợt gầy trơ xương: “Tạp Tứ, ngươi đến đúng lúc lắm! Ngươi không quan tâm tới huyết thống ma đạo, phản bội ma đạo chạy theo giặc, chứa chấp tội phạm của bốn môn phái ở núi Thư Mạt, âm mưu phá hỏng đại nghiệp của ma đạo, tội ác như thế, sao thế gian có thể tha thứ cho ngươi được?! Tội nhân như ngươi, bất cứ ai trong ma đạo dù chỉ có chút xíu chính trực thôi, ai cũng có thể giết ngươi!”
“Bớt dát vàng lên mặt đi.” Tạp Tứ nhếch môi, cười khẩy: “Chính trực của ngươi là lén lút bắt trói bạn của ta rồi làm nhục, chờ ta tìm tới hả?”
Tôn chủ kia cười đầy gian trá: “Đại trượng phu làm việc, cần gì phải để ý chuyện nhỏ nhặt?”
Dứt lời, gã tung mấy chưởng ra, nhìn hang động tối có vẻ chật hẹp nhưng lại mở rộng sang hai bên vô hạn, đá nhũ lởm chởm vốn đứng sừng sững trong bóng tối bỗng biến thành đệ tử ma đạo mặc quần áo đen đông nghịt, sống sờ sờ!
Tạp Tứ “hơ” một tiếng.
Trận pháp che mắt này rất tốt, nhất thời che giấu qua mắt được cả hắn ta.
Từng con mắt lạnh lùng đều nhìn chằm chằm Tạp Tứ, nếu ánh mắt có thể biến thành lưỡi dao sắc thì e là Tạp Tứ đã bị ngàn dao băm vằm, phơi thây tại chỗ luôn rồi.
Tôn chủ lật quân át chủ bài của mình lên, nhếch môi cười u ám: “Không biết Tạp công tử có hài lòng với kế bắt ba ba trong rọ của ta không?”
Tạp Tứ cười theo gã.
“Bắt ba ba trong rọ, ta thích câu này.” Tạp Tứ xoay cổ, thanh kiếm vẫn còn nhỏ máu vốn dán sát bên người bị hắn ta đặt ngang vào trong khuỷu tay trái, dùng tay áo ở khuỷu tay lau sạch máu bẩn trên kiếm, quẹt ra một tia sáng chói sáng loáng: “Dù sao cũng chỉ có một trăm hai mươi mốt con ba ba thôi mà, bắt sạch là được.”
Tên được gọi là tôn chủ bỗng ngừng thở:
Sao… Tạp Tứ biết tính cả gã có tổng cộng một trăm hai mươi mốt người của ma đạo ở trong hang động này?
Chẳng lẽ hắn ta phát hiện từ sớm rồi ư?
Không, tuyệt đối không thể nào!
Tôn chủ rất tự tin về thuật che mắt của mình.
Nhưng nếu không phải phát hiện ra từ sớm thì chỉ còn câu trả lời khủng khiếp hơn mới giải thích cho câu hỏi ấy được: Chỉ mới gặp thoáng qua, Tạp Tứ đã đếm ra số người ở trong hang động này thông qua hơi thở của mọi người!
Trong lúc tôn chủ nghi ngờ không thôi, thanh kiếm được Tạp Tứ dùng ống tay áo lau cho sạch bóng như không còn một hạt bụi được hắn ta bỏ xuống dọc theo cơ thể, sau đó rung lên, phát ra tiếng kiếm ong ong vang vọng.
Chỉ vào lúc này, trong mắt Tạp Tứ mới toát ra màu máu lạnh lùng thích giết chóc đặc thù của người trong ma đạo, nhưng khóe miệng hắn ta vẫn nhếch lên, như thế lại càng khiến người ta sợ hãi hơn: “Nói đùa thôi. Các ngươi không tính là ba ba gì cả, cùng lắm chỉ là đá thử kiếm chất lượng kém.”
Trong ánh kiếm màu máu và tiếng kêu than thảm thiết, hô hấp của Từ Bình Sinh càng ngày càng gấp gáp.
Đương nhiên hắn không có hứng thú gì với máu không còn sức sống của bản thân nhưng khi máu tươi ngập tràn xung quanh hắn, cơn đói rạo rực cuồn cuộn trong dạ dày hắn như gió bão, sau khi không biết kiềm chế trong bao lâu, bản năng thúc giục hắn bò dậy, dựa vào cảm giác mà nhào tới thi thể gần nhất.
Nhưng hắn chưa kịp chạm vào yết hầu bị cứa rách của thi thể ấy, một đôi tay trói gô hai cánh tay hắn lại từ đằng sau: “Bình Sinh, Từ Bình Sinh!”
Từ Bình Sinh đói khó chịu, liều mạng giãy giụa nhưng vì mất máu quá nhiều nên chút xíu ngoan cố chống lại ấy của hắn hệt như con mèo con chó cọ vào người chủ nhân.
Rất nhanh sau đó, một luồng máu tươi mới xộc lên ngay trước mũi hắn, hình như có người tự cứa cổ tay mình.
Giọng điệu trước giờ luôn mang vẻ bất cần đời bỗng trở nên dịu dàng như giấc mơ, vừa dụ vừa dỗ Từ Bình Sinh: “Đây, uống máu của ta, đừng uống của bọn chúng, bẩn lắm.”
Từ Bình Sinh cực kỳ đói bụng, nhào tới ngậm lấy miệng máu không ngừng tuôn ra chất dịch như mưa rào giữa trời hạn, mút nó như không thể chờ đợi thêm nữa, cổ họng phát ra tiếng nuốt đói khát dị thường.
Hắn không nhớ mình đã uống bao nhiêu máu, chỉ biết lúc mình khôi phục được chút ý thức và sức lực thì đang được Tạp Tứ cõng trên lưng, chậm rãi đi xuống núi theo con đường gồ ghề.
Từ Bình Sinh híp mắt, nhìn phần da cổ của Tạp Tứ ở gần mình nhất.
Phần da đó trắng bệch vì mất máu, mạch máu xanh nhạt, tím nhạt nổi bật một cách dị thường trên nền da trắng bệch ấy.
“Tỉnh rồi đó à?” Nghe tiếng hít thở ổn định sau lưng bỗng ngắt quãng, Tạp Tứ đoán Từ Bình Sinh sắp tỉnh rồi: “Thế nào, còn đói không?”
Từ Bình Sinh chớp mắt, thật thà đáp: “Đói.”
“Đói cũng phải nhịn cho ta.” Tạp Tứ trách cứ lầm bầm: “Đánh nhau với đám rác rưởi kia chẳng rách da tí nào lại bị ngươi uống hết một bình máu, đi đâu tìm công bằng đây.”
Từ Bình Sinh bị hắn ta nói mà thấy hơi xấu hổ.
Hắn vẫn còn nhớ chuyện uống máu, Tạp Tứ nói “một bình máu” cũng chẳng phải nói ngoa.
Từ Bình Sinh im lặng, không có nghĩa là Tạp Tứ sẽ không hỏi rõ đầu đuôi sự việc: “Nửa đêm nửa hôm ngươi không ngủ chạy lung tung làm gì? Sao ngươi bị bọn chúng bắt được?”
Nói thật thì tâm trạng Tạp Tứ không tốt chút nào.
Nếu không phải vì có đám rác rưởi kia chịu tội thay, để hắn ta trút giận thì Tạp Tứ không thể đảm bảo mình sẽ không nhân lúc Từ Bình Sinh ngủ mê mệt mà đánh hắn một trận.
Sao Từ Bình Sinh không biết tại mình sơ suất mà rước lấy tại vạ cho được, hắn nằm trên lưng Tạp Tứ, ấp úng giải thích: “Ta tới tiệm binh khí hỏi kiếm cho ngươi.”
Tạp Tứ bỗng dừng chân.
Từ Bình Sinh mất tự nhiên nói: “Vốn dĩ ta chỉ thuận miệng hỏi thôi. Ông chủ tiệm binh khí nói vùng này gần sông nước, ẩm ướt, vốn không dễ có đá tốt, dụng cụ đá mà người bản địa bọn họ rèn ra đều lấy ở núi đá trên hẻm núi Hoàng Ngưu. Ta định… Tiện đường lên hẻm núi Hoàng Ngưu tìm thử. Không ngờ…”
Nghe hắn giải thích như thế, tâm trạng của Tạp Tứ bỗng tốt lên hẳn: “Tiện đường đi tìm? Tiện đường kiểu gì mà tiện mười lăm dặm luôn à?”
Từ Bình Sinh hơi xấu hổ, nhoài trên lưng hắn ta không nói gì.
Tạp Tứ nhanh chân đi xuống núi, bước đi nhẹ nhàng hơn đôi phần: “Đừng nghe ông chủ đó nói linh tinh, chất lượng núi đá ở đây tệ lắm, còn chẳng chịu nổi ta bổ bừa một phát.”
Từ Bình Sinh không phục: “Ta cũng biết thế, để giảm bớt phiền phức, bớt chút thời gian… Chúng ta ở đây lâu rồi, tiền bạc không đủ tiêu, sao chống đỡ được đến nơi tiếp theo để tìm kiếm?”
Tạp Từ khẽ cười.
Từ Bình Sinh siết chặt cánh tay ôm cổ hắn ta lại: “Cười gì?”
“Mười ba năm qua, ta phải vơ vét, chuẩn bị binh khí phòng thân cho đệ tử của các môn phái, đương nhiên phải bôn ba khắp nơi.” Tạp Tứ nghiêng nửa khuôn mặt qua: “Bây giờ mọi chuyện đều ổn rồi, hai chúng ta đi chơi, không tìm kiếm nữa.”
Từ Bình Sinh mờ mịt hỏi: “Không tìm nữa hả?”
Tạp Tứ cười đáp: “Ừ, không tìm nữa. Ngươi cũng khỏi phải cất giấu linh thạch, mau đi đổi một viên, hai ngày tới mua nhiều gan lợn gan gà vào để tẩm bổ cho ta.”
Từ Bình Sinh vùi mặt vào lưng Tạp Tứ, hơi vui vẻ đáp: “Được luôn.”
Tạp Tứ cảm thấy sau lưng hơi khác thường nhưng nhất thời không quay đầu lại được: “Này, có phải ngươi cười rồi không?”
Từ Bình Sinh cọ trên người hắn ta, cố gắng cọ hết ý cười ở khóe miệng đi rồi mới áp sát gò má vào lưng hắn ta, giả vở nghiêm túc nói: “Không hề.”
6. Nhà có con gái ngoan
Từ lúc quay về thế giới thực, Chu Vọng ở Đan Dương Phong, theo Khúc Trì học cách quản lý môn phái và đối nhân xử thế.
Ban đầu, cô nhóc chỉ làm mấy việc nhỏ như sắp xếp công văn, phê duyệt giấy tờ được trình lên.
Vì lúc nhỏ được Chu Bắc Nam, Khúc Trì, Nguyên Như Trú và Lục Ngự Cửu hun đúc, mặc dù tài năng thi thư không thể che lấp phong thái nữ hiệp hào sảng hiên ngang của cô nhóc nhưng cũng đủ để cô nhóc sử dụng hằng ngày, mỗi việc đổi dụng cụ viết lách thường dùng từ cành cây sang bút mực đã tốn không ít công sức.
Sau khi cô nhóc dần thích nghi với hoàn cảnh tốt đẹp ấy, xử lý các loại giấy tờ một cách thuận lợi, Khúc Trì mới cho phép cô nhóc làm chuyện mà cô nhóc giỏi nhất – hắn giao công việc tập đánh cận chiến của các đệ tử mới vào Đan Dương Phong cho Chu Vọng chỉ đạo.
Ngũ quan của Chu Vọng giống phụ thân mình sáu mươi phần trăm, giống mẫu thân mình bốn mươi phần trăm, sống ở Man Hoang nhiều năm nhưng chưa từng phải chịu tàn phá của bão cát cắt chém, mặt trời gay gắt, sương tuyết lạnh giá, vì thế cô nhóc có làn da trắng như tuyết, tay chân thon dài đẹp đẽ.
Lúc đầu, những đệ tử vừa mới vào nội môn nhìn thấy Chu Vọng vóc người nhỏ nhắn, trắng sáng như tuyết thì ai nấy đều thầm nghĩ trong lòng:
Cô nhóc này mềm mại yếu đuối như thế, sao chỉ đạo đánh đấm được?
Mãi đến tận khi Chu Vọng dùng một tay vung thanh đao dài bằng đồng nặng mấy chục cân lên rồi khiêng trên vai, mọi người đều cùng nhau hít sâu, không oán thầm trong lòng nữa.
Chu Vọng biết muốn làm người chỉ đạo đánh cận chiến thì chỉ có thể thể hiện thực lực thật sự trong lúc đánh.
Cô nhóc nhìn quanh một vòng, xoay cổ kêu răng rắc một lượt: “Không dùng linh lực, chỉ dựa vào đao kiếm. Ai lên trước?”
Hôm đó, cô nhóc dùng sống đao để đánh, thắng ba mươi bảy trận liên tiếp.
Từ đó đệ tử mới thăng cấp vào nội môn của Đan Dương hoàn toàn bái phục cô nhóc, nhưng cô nhóc nhỏ tuổi, gọi là sư trưởng thì hơi kỳ, đương nhiên Chu Vọng không chấp nhặt cái này, vì thế, các đệ tử bàn bạc với nhau xong thì gọi cô nhóc là “Chu cô nương”, cực kỳ thân thiết.
Thấy sắp quay về thế giới thực hơn một năm rồi, Chu cô nương đã tới tuổi cập kê, cũng có hiểu biết nhất định về chuyện nam nữ ở thế giới thực nhưng bản thân cô nhóc không để ý gì mấy.
Vì thế, sau khi một buổi học kết thúc, lúc cô nhóc bị một đệ tử bằng tuổi đỏ mặt chặn lại, Chu Vọng không hề nghĩ nhiều.
Cô nhóc hỏi: “Ngươi có chuyện gì? Không hiểu tâm pháp hôm nay học sao?”
Để tiện tập luyện đao kiếm, Chu Vọng dùng một sợi dây buộc tóc buộc cao mái tóc đen nhánh suôn mượt lên, để lộ cần cổ thon dài, giọt mồ hôi đọng ở đó tỏa sáng rực rỡ dưới ánh chiều tà.
Lòng bàn tay thiếu niên đổ mồ hôi, mắt chỉ dám nhìn xuống mũi chân cô nhóc, đồng thời dùng cả hai tay giơ một bức thư lên.
Động tác này cực kỳ cung kính và trịnh trọng, Chu Vọng tưởng cậu ấy muốn gửi cho Khúc Trì nên tiện tay nhận luôn: “Đây là?”
Tiểu đệ tử đỏ bừng mặt, vò góc áo nói: “Quấy rầy Chu cô nương rồi…”
Run rẩy nói ra sáu chữ đó xong, thiếu niên đã tiêu tốn hết toàn bộ can đảm, quay ngươi chạy đi luôn, trông hệt như thỏ chạy trốn, Chu Vọng chẳng gọi cậu ấy lại được.
Chu Vọng khá khó hiểu mà nhìn bóng lưng cậu ấy, lật qua lật lại nhìn bức thư kia.
Trên thư không có kí tên, miệng bao thư còn có dấu sáp niêm phong, hình dáng dấu sáp không phải dấu tròn thường thấy mà có hoa văn song ngư, đầu đuôi chụm lại, cực kỳ tinh xảo.
Cô nhóc không hiểu tấm lòng của thiếu nam khi khắc dấu sáp thành hình như thế, cầm thư đi về phòng mình, đặt vào một đống thư khác, đưa hết đến điện của Khúc Trì, để hắn xem xét phê duyệt.
Đưa thư xong, cô nhóc tự động rời khỏi đó, chuẩn bị tập luyện buổi tối.
Lá thư kia đặt ở trên cùng đống thư, vì thế Khúc Trì vươn tay là lấy được luôn.
Nhìn thấy hình dạng dấu sáp ở miệng bao thư, hắn hơi sửng sốt nhưng vẫn mở thư ra.
Lần đầu tiên hắn đọc hơi vội, nhất thời không thể hiểu rõ ẩn ý trong đó, chỉ biết đây không phải công văn, tới khi đọc lần hai được một nửa, mặt hắn bỗng đỏ bừng lên.
Hắn bỏ thư xuống, nhắm mắt cho bình tĩnh một lúc rồi đứng dậy thắp đèn tê giác lên.
Từ khi ra khỏi Man Hoang, Từ Hành Chi đã chỉnh sửa lại đèn tê giác của mấy người họ, bộ phận chính được làm từ ngọc xanh, hai tai ba chân, chia làm ba cốc đèn. Nếu muốn liên lạc với ai thì chỉ cần thắp cốc đèn của riêng người đó là có thể liên kết suy nghĩ.
Khúc Trì thắp cốc đèn riêng của Ứng Thiên Xuyên trước, nghĩ gì đó rồi dịch linh hỏa cháy trên đầu ngón tay sang cốc đèn của Phong Lăng Sơn và Thanh Lương Cốc.
Cây đào nhỏ nghe thấy tiếng động trong điện, thò một cành đào vào, nhìn thấy ba cốc đèn đều sáng thì giật mình.
Ba đèn đều được thắp sáng, ắt có chuyện lớn.
Đan Dương Phong có chuyện quan trọng gì sao?
Khi nhìn thấy Từ Hành Chi, Chu Bắc Nam, Nguyên Như Trú và Lục Ngự Cửu chạy tới Đan Dương ngay trong đêm thì cây đào nhỏ càng lo lắng hơn, ngay cả nước linh đan bữa tối cũng uống ít đi, lặng lẽ vươn chạc cây đến bên cửa sổ, nghe động tĩnh bên trong.
Đối với chủ của bốn môn phái hiện nay mà nói, đây là một chuyện cực kỳ tốt.
Vì trước kia bọn họ chưa một ai nuôi con gái, một tên nhóc vô danh gan to bằng trời tự dưng xông ra khiến cả nhóm đàn ông có pháp lực khoảng tầm trên dưới Nguyên anh đều hoảng hốt.
Chu Bắc Nam tức giận khoanh tay, đi qua đi lại trong phòng: “Ta đã nói rồi mà! Khúc Trì, ngươi cho con bé chung đụng với đám tiểu tử thối trẻ tuổi sinh lực tràn trề suốt ngày, không xảy ra chuyện được chắc!”
Khúc Trì tỏ vẻ xin lỗi.
Lục Ngự Cửu khuyên giải hắn ta: “Chẳng phải vẫn chưa xảy ra chuyện gì sao, chỉ là một bức thư thôi mà.”
Chu Bắc Nam trợn trừng mắt lên: “Tới khi có chuyện thì muộn mất rồi!”
Từ Hành Chi đang chăm chú đọc bức thư gửi gắm đầy tình cảm kiều diễm của thiếu niên kia, vừa phẩy quạt vừa nhận xét: “Thơ này được đấy, rất xứng với A Vọng.”
Chu Bắc Nam túm lấy bức thư: “Chép từ kinh thi ra đó, không hay mà được à!”
Hắn ta đọc qua một lượt, càng đọc càng giận, vứt lá thư xuống: “Coi nét chữ ấy kìa, bút lực nhẹ tênh, nhìn qua thôi đã biết không có cơ bắp, thế mà lại dám mơ tưởng tới A Vọng?”
Đúng là bới xương trong trứng, Lục Ngự Cửu không nhìn nổi nữa: “Được rồi được rồi, ngươi đã tận mắt nhìn thấy người ta đâu, đừng kết luận bừa bãi.”
Chu Bắc Nam phản ứng dữ dội khác thường: “Tốt nhất đừng để ta nhìn thấy hắn!”
Nguyên Như Trú đứng cạnh ngồi xuống nhặt tờ giấy lên, đọc cẩn thận một lượt.
Từ Hành Chi cầm quạt chống cằm, nghiêm túc phân tích: “Thư này không ký tên, không có lạc khoản, chỉ ghi rõ là gửi cho A Vọng. Xem ra người này nhát gan, chắc là gửi được bức thư này thôi cũng đã cần rất nhiều can đảm rồi.”
Chu Bắc Nam hừ một tiếng: “Nhát như thỏ đế!”
Mặc dù lời nhận xét của Chu Bắc Nam không công bằng hợp lý lắm nhưng Từ Hành Chi lại đồng tình với suy đoán ấy: “Không hợp tính cách A Vọng, e là khó bên nhau một đời.”
Nguyên Như Trú: “…”
Nàng càng thấy nhóm đại lão gia này phản ứng hơi quá.
Chỉ là một bức thư tình chưa gửi tới tay thôi mà, sao lại kéo tới “bên nhau một đời” luôn rồi?
Nhưng Từ Hành Chi không hề nhận ra suy nghĩ đó của mình có gì không đúng, quay qua hỏi Khúc Trì: “Gọi A Vọng tới hỏi chuyện chưa?”
Khúc Trì trước giờ luôn thận trọng vững vàng như vạc lại có vẻ lo lắng hiếm thấy: “Chưa. Chuyện này… Ta phải hỏi thế nào?”
Lục Ngự Cửu thử đề nghị: “Hỏi thử tính cách người đó chắc là được chứ nhỉ.”
Khúc Trì ấn huyệt thái dương: “Tiểu Lục, ngươi thử đi, được không? Ta ở Man Hoang nhiều năm, tâm trí sai sót, khi đó không giấu giếm con bé điều gì cả, nhưng bây giờ tìm con bé nói về chuyện này, khó tránh khỏi hơi…”
“Đệ?” Lục Ngự Cửu vội vàng xua tay: “Đệ không được đâu, đệ và con bé, chuyện này…”
Cậu ta sốt ruột đến mức tai ửng đỏ lên, vươn tay túm góc áo Chu Bắc Nam: “Bắc Nam, ngươi là cậu con bé, ngươi thân thiết nhất với con bé, cũng giỏi quản lý con bé nhất. Ngươi đi nói chuyện với con bé đi.”
“Ta đi thì đi!”
Bật thốt ra xong, Chu Bắc Nam im lặng một lúc đầy kỳ dị.
Một lúc sau, hắn ta hít một hơi như bị đau răng, cứ như nuốt hết toàn bộ lý tưởng hào hùng vừa rồi xuống bụng: “Ta đi hỏi gì? Con bé là con gái mà, dù ta và con bé có thân thiết đến mức nào đi chăng nữa, chuyện này cũng không dễ hỏi được…”
Dông dài một lúc, Chu Bắc Nam mới chĩa mũi nhọn qua phía khác: “Từ Hành Chi, không phải ngươi mồm mép lắm sao? Ngươi đi đi!”
Từ Hành Chi nhếch môi lên như có ý giễu cợt, y cười làm cho thái dương Chu Bắc Nam giật giật. Nhưng y vừa lên tiếng đã quăng nồi một cách dứt khoát: “Như Trú, muội đi đi.”
Sau khi dùng phương thuốc của Từ Hành Chi, da thịt trên người Nguyên Như Trú đã khôi phục như lúc ban đầu, nhưng dược tính chưa bài trừ hết nên không thể tiếp xúc với ánh mặt trời, vì thế nàng vẫn trùm áo choàng đen kín người, chỉ có hai cổ tay trắng ngần để lộ ra bên ngoài, nâng lá thư tràn ngập xuân tình của thiếu niên kia trong tay.
Nàng dịu dàng nói: “Các vị sư huynh, có thể nghe Như Trú nói một câu không? Đây là chuyện của đám nhỏ, chi bằng để A Vọng tự quyết định xem giải quyết thế nào. Nếu để muội xử lý thì muội sẽ dán bức thư này lại nguyên dạng, gửi trả A Vọng, muốn xử lý thế nào thì tùy con bé.”
Bốn người đàn ông ở đó không nói gì nữa.
Hiếm khi nhìn thấy cảnh tượng môn chủ của bốn môn phái đều ngẩn người, lúng túng, Nguyên Như Trú không nhịn được mà bật cười.
Có lẽ đây chính là quan tâm quá sẽ rối.
Trong lúc nàng nghĩ thế, nàng nghe Từ Hành Chi thở dài.
“Nếu con bé là con gái ta, con bé thích ở bên ai thì ở, ta bầu bạn bên cạnh con bé, có thể để mặc con bé thích làm gì thì làm, chơi bời thoải mái.” Từ Hành Chi nhỏ giọng nói: “Nhưng A Vọng là con gái Tuyết Trần. Nếu chăm sóc con bé không tốt, ta không có mặt mũi đi gặp hắn.”
Những người trong điện bỗng ủ ê, mãi tới tận khi có tiếng gõ cửa đột ngột khiến ngọn đèn dầu lay động mấy lần, bầu không khí ngưng trệ mới chuyển động trở lại.
Chu Vọng đẩy cửa đi vào nhìn thấy có nhiều người tụ tập trong điện thì bất ngờ: “Cữu cữu, cha nuôi, Từ sư huynh, Nguyên sư tỷ, mọi người…”
Khúc Trì vừa bình tĩnh lại thì mỉm cười hỏi: “Tập luyện buổi tối xong ồi à? Có chuyện gì không?”
Chu Vọng lần lượt hành lễ đơn giản với các trưởng bối trong điện rồi phóng khoáng nói: “Con có một bài tập viết văn không cẩn thận để lẫn vào đống thư giao cho cha nuôi hôm nay, con đến tìm.”
Chu Bắc Nam nhướng mày: “Bài tập viết văn?”
Chu Vọng đáp: “Con tập viết chữ từ kinh thi, chép một bài thơ con thích, cho vui thôi, còn cố ý viết tên mình ở đầu thư nữa, coi như thư tình tự gửi cho bản thân, không ngờ hôm nay thu dọn thư từ, con không để ý kỹ nên bỏ bức thư ấy vào các công văn khác rồi gửi lên, xin cha nuôi tha lỗi.”
Nghe cô nhóc giải thích như thế, Chu Bắc Nam thở phào nhẹ nhõm, giãn hàng lông mày nhíu chặt ra nhưng trên mặt vẫn còn căng cứng, tỏ vẻ không có chuyện gì xảy ra cả, lấy lá thư trên tay Nguyên Như Trú rồi đưa cả bìa thư cho Chu Vọng, dùng giọng điệu trưởng bối dạy dỗ: “Sau này cẩn thận một chút, không được tái phạm lỗi này nữa.”
Chu Vọng uốn gối hành lễ: “Vâng thưa cữu cữu.”
Chu Bắc Nam lại khen ngợi: “Chữ đẹp đấy, thanh tú ngay ngắn, chăm chỉ luyện tập, ắt sẽ có ích cho sau này.”
Nhận lại bức thư suýt thì gặp phải họa lớn ấy xong, Chu Vọng đi ra khỏi điện, quay đầu xác nhận cánh cửa đã đóng chặt mới nhanh chân đi tới chỗ cây đào nhỏ, thì thầm: “Mẹ nuôi, cảm ơn người nhé. Nếu người không nói cho con biết việc này thì cữu cữu và mọi người sẽ làm ầm lên mất.”
Cây đào nhỏ lắc lư, dùng đầu cành cây nhỏ nhắn xoa mu bàn tay cô nhóc.
Chu Vọng hiểu ý, thân thiết vỗ về cành cây: “Con hiểu, con hiểu mà. Con tự có suy nghĩ của mình, mẹ nuôi không cần lo lắng.”
Chu Vọng cất thư đi rồi đi ra ngoài, được một đoạn không xa thì nhìn thấy một người đang đợi cô nhóc trong bóng tối.
Chu Vọng không hề bất ngờ vì điều này.
Cô nhóc biết lời nói dối của mình không hay ho gì cho cam, mặc dù nó đủ để cô nhóc gạt được cữu cữu nhưng cha nuôi và Từ sư huynh thì không dễ lừa dối cho qua được. Cha nuôi tính cách ôn hòa, sẽ không gặng hỏi quá nhiều, vì thế người duy nhất sẽ tìm cô nhóc nói chuyện rõ ràng chỉ còn Từ sư huynh thôi.
Cô nhóc dừng chân lại gọi: “Từ sư huynh.”
Từ Hành Chi bước ra khỏi chỗ tối, cười nói: “A Vọng, đi uống rượu với Từ sư huynh không?”
Hai người tìm một cung điện yên tĩnh, ngồi xuống bậc thềm ở sau điện.
Đêm lạnh như nước nhưng rượu lại ấm áp. Từ Hành Chi rót một xíu đưa cho Chu Vọng, Chu Vọng nhận chén rồi uống một hơi cạn sạch, dùng đáy chén để thể hiện suy nghĩ, Từ Hành Chi hiểu ra ngay, cười rót cho cô nhóc một chén đầy: “Uống từ từ thoi, khéo say đấy.”
Chu Vọng nghe lời, nhấp một hớp nhỏ.
Từ Hành Chi tự rót một chén cho mình, không kiêng dè gì, hỏi thẳng luôn: “Đứa nhỏ kia thế nào? Mặt mũi ra sao? Nhân phẩm thế nào? Tên là gì?”
Chu Vọng xoa chóp mũi, cười nói: “Từ sư huynh, huynh làm khó ta rồi. Ta dạy nhiều đệ tử như thế, phải nhớ hết tên và tính cách của từng người thì khó lắm. Hơn nữa hắn dễ xấu hổ lắm, chưa để ta nhìn rõ mặt nữa.”
Không chờ Từ Hành Chi hỏi tiếp, thiếu nữ cởi mở ấy đã nói luôn: “Nhưng mà Từ sư huynh không cần lo lắng. Ta tự biết chừng mực, biết nên làm thế nào.”
“Ta từng nghe mẹ nuôi kể rất nhiều câu chuyện và thoại bản về tình yêu nam nữ, quả thực trong lòng cũng hơi mong chờ.” Chu Vọng nói: “Nhưng Thanh Lương Cốc và Ứng Thiên Xuyên đều đang nhìn ta, ta không thể để cữu cữu mất mặt được, cũng không thể để cha mẹ ta khó xử, nếu đã quyết định ở lại thế gian, không về Man Hoang nữa, thế gian vạn trượng, đất trời rộng lớn, ta phải sống cho ra sống. Còn chuyện yêu đương, chú trọng một chữ duyên, không đến thì thôi, nếu đến thì ta sẽ không sợ, cũng không trốn.”
Cô nhóc hiểu rõ như thế khiến Từ Hành Chi chuẩn bị một đống lời muốn nói không cần khuyên bảo gì thêm nữa.
Vì thế, ngàn vạn lời muốn nói đều biến thành tiếng cười khẽ: “Được, không nói nữa. Nào, uống rượu.”
Lúc hai người cụng chén, Từ Hành Chi không khỏi nghĩ: thiếu niên viết thư tình cho Chu Vọng có tầm mắt hơi hạn hẹp.
Cô gái như Chu Vọng xứng với câu thơ “Hòa tình dịu dàng giữa cõi trần, gửi những cảm xúc trang nhã nơi mây cao” hơn.
Nếu lúc trước khi ra khỏi điện, Từ Hành Chi vẫn không yên tâm về Chu Vọng lắm, bây giờ nghe cô nhóc nói những lời này, cuối cùng y cũng yên tâm.
Buổi tập võ hôm sau, Chu Vọng nhận ra thiếu niên gửi thư tình giữa đội ngũ trăm người, nhân lúc không ai chú ý, cô nhóc gật đầu với cậu ấy, ra hiệu cậu ấy tới tìm mình sau khi buổi tập kết thúc.
Thiếu niên hào hứng đi tới đúng hẹn nhưng lại nhận được bức thư tình bị trả lại.
Đối diện với thiếu niên ủ rũ không nói ra lời, Chu Vọng vô tư nhìn thẳng với cậu ấy, nói: “Xin lỗi ngươi.”
Thiếu niên khịt cái mũi đỏ ửng, khẽ khàng đáp: “Ta không xứng với ngươi.”
“Không có gì xứng hay không xứng cả.” Chu Vọng nói: “Chu Vọng ta không phải người ở tít trên cao không thể với tới.”
Thiếu niên nghe vậy thì ngạc nhiên mừng rỡ ngỡ ngàng ngẩng đầu lên.
Xung quanh nổi gió làm tung bay mái tóc dài được buộc đuôi ngựa của Chu Vọng.
“Khương Di Sinh.” Chu Vọng chắp tay sau lưng, phóng khoáng nói: “Nếu ngươi có ý với ta thật thì gửi lễ thưa chuyện với cha nuôi và cữu cữu ta là được. Bọn họ nuôi ta lớn, có công ơn sâu nặng với ta, nếu ngươi muốn lấy lòng ta, không được bọn họ đồng ý, không có thành tích gì trước mặt bọn họ thì e là không được đâu.”
Thiếu niên ngơ ngác nhìn cô nhóc, trái tim đập thình thịch như trống: “Chu cô nương, ngươi nhớ tên ta sao?”
Chu Vọng không đáp, chỉ khẽ mỉm cười.
Thiếu nữ trang điểm đẹp như gió xuân, một nụ cười dù bỏ ngàn vàng cũng không đủ.
Mặt đệ tử tên Khương Di Sinh đỏ bừng, giọng hơi cao lên: “Nhưng bây giờ ta… Vừa mới vào nội môn không lâu, nếu muốn lọt vào mắt sơn chủ và Chu xuyên chủ, tạo ra thành tích trước mặt bọn họ thì e là nhất thời khó mà…”
Chu Vọng vén tóc rối ra sau tai, cười nói: “Vậy thì mau chóng bắt kịp đi. Tính Chu Vọng ta đây nóng vội hấp tấp, trước giờ không thích đợi người khác.”
Cuối cùng Khương Di Sinh cũng có can đảm nhìn thẳng vào Chu Vọng.
Cậu ấy nghiêm túc nhìn cô nhóc, dùng giọng điệu hứa hẹn trịnh trọng nói: “Ta sẽ làm được.”
Chu Vọng cười gật đầu, đang định quay người đi thì nhớ ra gì đó, lấy dấu sáp song ngư ở bên eo ra kẹp trên đầu ngón tay, lay qua lay lại, khen: “Khắc đẹp lắm, ta nhận làm vật kỷ niệm nhé.”
Tới khi bóng người duyên dáng của Chu Vọng đi khuất khỏi tầm mắt mình, Khương Di Sinh mới giơ bức thư tình bị mình nắm chặt đến mức nóng và nhàu lên, lấy tờ giấy bên trong ra.
Trên tờ giấy mỏng manh có bức thư tình mà cậu ấy chăm chú chép từng chữ giữa đêm khuya.
Ngoài đồng nội có cỏ mọc lan, sương vương mịt mù.
Có một người con gái xinh tươi, dịu dàng duyên dáng.
Không hẹn mà tình cờ gặp nhau, thật là hợp ý nguyện của ta.
Ngoài đồng nội có cỏ mọc lan, sương vương dày đặc.
Có một người con gái xinh tươi, duyên dáng dịu dàng.
Không hẹn mà tình cờ gặp nhau, ai cũng được thỏa lòng mãn nguyện.
*Bài thơ trên là “Ngoài đồng nội cỏ mọc lan” trong Kinh thi.
Thiếu niên nhẹ nhàng ôm tờ giấy vào lòng, đôi mắt ôn hòa bỗng bùng lên hai ngọn lửa tình yêu cháy bỏng, đốt cho gương mặt cậu ấy nóng lên.
—– Hết truyện —–